Tổng thống Biden mỉa mai thông điệp siết kiểm soát nhập cư từ Elon Musk, nói rằng tỷ phú này từng là "lao động chui" khi mới đến Mỹ.
Phân biệt giữa bằng cử nhân đại học và bằng kỹ sư
Bằng cử nhân là bằng dành cho cho sinh viên tốt các khối ngành về kinh tế xã hội, nghiên cứu nhiều, với thời gian đào tạo thông thường là 04 năm.
Cơ hội việc làm tương đối lớn và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Còn bằng kỹ sư là bằng được cấp cho sinh viên tốt nghiệp các khối ngành như: Kỹ thuật, thiên về thực hành, ứng dụng vào thực tiễn nhiều hơn bằng cử nhân và thời gian đào tạo cũng dài hơn, có thể lên đến 05 năm.
Vì thế, nhìn chung thì tấm bằng kỹ sư dù sao cũng sẽ có khả năng cạnh tranh nhiều hơn so với bằng cử nhân. Bằng kỹ sư được đánh giá có nhiều lợi thế hơn bằng cử nhân.
Có phải bằng cử nhân là bằng đại học?
Theo quy định của khoản 2 Điều 12 Luật Giáo dục năm 2019, các văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân gồm: bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, bằng tốt nghiệp trung cấp, bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và các văn bằng cùng trình độ.
Bên cạnh đó, Luật Giáo dục đại học 2012 cũng quy định trong Điều 38 về văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân gồm: Bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và văn bằng cùng trình độ.
Vì thế, cử nhân là tên gọi chung dành cho các sinh viên đã tốt nghiệp đại học và bằng cử nhân được hiểu là bằng do cơ sở giáo dục đại học cấp cho sinh viên đã đủ điều kiện tốt nghiệp hệ chính quy bậc đại học. Như vậy, bằng cử nhân cũng chính là bằng đại học.
Bằng cao đẳng và bằng cử nhân khác gì nhau?
Theo Điều 38 của Luật Giáo dục đại học 2012 và sửa đổi năm 2018 quy định, danh hiệu cử nhân phải là những người tốt nghiệp đại học. Vì vậy nên, danh hiệu cử nhân cao đẳng của tấm bằng cao đẳng không thể nào giống với danh hiệu cử nhân của bằng đại học.
Hơn nữa, cao đẳng còn chia ra làm hai loại, một là do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý gọi là cao đẳng chính quy, hai là do do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý gọi là cao đẳng nghề.
Ngoài ra, nếu có tấm bằng cử nhân đại học, bạn có thể tiếp tục học chuyên sâu hơn cho các học vị cao hơn như: thạc sĩ, tiến sĩ. Còn với tấm bằng cao đẳng, bạn không thể làm được điều đó mà chỉ có thể liên thông lên trình độ đại học và tiếp tục học để lấy bằng cử nhân đại học.
Trên đây là tất cả những thông tin liên quan đến khái niệm bằng cử nhân là gì và những vấn đề xoay quanh nó mà chúng tôi đã tổng hợp được. Nếu có thắc mắc khác, bạn vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ tư vấn và đừng quên chia sẻ bài viết này đến mọi người nhé.
1. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Tai nạn giao thông đường bộ kéo giảm chưa nhiều, hậu quả tai nạn ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhiều người cùng lúc, trong cùng vụ việc. Do vậy, đề nghị Chính phủ xem xét có các giải pháp hữu hiệu hơn xử lý trên nhiều mặt, nhất là xử lý nghiêm hơn đối với tổ chức, cá nhân điều khiển phương tiện và cả chủ phương tiện tham gia giao thông vi phạm.
Trả lời: Tại công văn số 14809/BGTVT-ATGT ngày 29/12/2017
Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông (TNGT) đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; bên cạnh đó, trong 11 tháng đầu năm 2017 (từ ngày 16/12/2016 đến 15/11/2017), cả nước xảy ra 18.384 vụ, làm chết 7.604 người, làm bị thương 15.189 người; so với cùng kỳ năm 2016, giảm 1.045 vụ (giảm 5,38%), giảm 303 người chết (giảm 3,83%), giảm 1.995 người bị thương (giảm 11,61%).
Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri, kết quả đạt được về công tác bảo đảm TTATGT chưa được như mong muốn và còn một số tồn tại hạn chế, như: số vụ tai nạn giao thông, số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ gây thiệt hại lớn về người và tài sản, một số đơn vị kinh doanh vận tải còn chưa thực hiện nghiêm các quy định về bảo đảm TTATGT, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông còn kém…; đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội.
Để chấn chỉnh tình trạng này, Chính phủ đã và đang chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT theo chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, trong đó chú trọng một số nhóm giải pháp sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT; trong đó, tập trung sửa đổi Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo hướng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu lực thi hành pháp luật trong hoạt động kinh doanh vận tải bằng xe ô tô.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm TTATGT; trong đó, theo chủ đề Năm an toàn giao thông hàng năm, các đơn vị chức năng đã và đang đẩy mạnh triển khai tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp trong công tác bảo đảm TTATGT.
- Triển khai rà soát, xử lý các điểm đen, điểm tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông trên đường bộ; thực hiện điều chỉnh, bổ sung hợp lý hệ thống báo hiệu đường bộ, thiết bị an toàn giao thông, bổ sung rào hộ lan, đường cứu nạn trên các tuyến đường bộ qua khu vực đèo dốc quanh co; tăng cường thực hiện công tác thẩm tra ATGT đối với các dự án xây dựng mới, nâng cấp cải tạo đường bộ và các tuyến đường bộ đang khai thác có nguy cơ mất an toàn giao thông cao.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực, như: thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh, điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, hoạt động các bến xe ô tô khách; việc chấp hành các quy định pháp luật trong công tác đăng kiểm phương tiện xe cơ giới đường bộ; việc chấp hành pháp luật trong công tác tổ chức giao thông tại một số dự án xây dựng công trình đường bộ trên đường đang khai thác.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ, nhiệm vụ về bảo đảm TTATGT; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hoạt động vận tải, khai thác hạ tầng giao thông và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về TTATGT.
2. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ chấp thuận bổ sung và chỉ đạo Nhà đầu tư thi công hoàn thành hệ thống đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến Quốc lộ 1, đoạn tránh Thị xã Cai Lậy nhằm góp phần giảm tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh như sau:
+ Bổ sung hạng mục lắp đặt hệ thống chiếu sáng trên tuyến tránh Quốc lộ 1, đoạn qua thị xã Cai Lậy qua những đoạn tuyến có nguy cơ mất an toàn giao thông rất cao như: qua các đường cắt nhau, qua các đoạn cong, qua khu dân cư, lắp đặt đèn chiếu sáng trên cầu đặt biệt là tại 03 cầu có đường chui dân sinh và tại 02 vị trí nút giao đầu và cuối tuyến tránh.
+ Khẩn trương thi công đường chui dân sinh dưới 03 cầu gồm: Ông Mười, Ba Muồng và Bình Phú đảm bảo cho xe máy và xe thô sơ lưu thông thuận tiện, an toàn trước khi nghiệm thu đưa công trình vào khai thác.
+ Lắp đặt bổ sung đầy đủ thiết bị an toàn giao thông theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ QCVN 41:2016/BGTVT như cột km, cọc tiêu, biển báo…
Trả lời: Tại công văn số 873/BGTVT-CQLXD ngày 24/01/2018
1. Tuyến tránh Cai Lậy thuộc Dự án ĐTXD công trình Tuyến tránh QL.1 và tăng cường mặt đường QL.1 đoạn qua TT. Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang theo hình thức Hợp đồng BOT, được thiết kế theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng. Giải pháp đảm bảo an toàn giao thông là bố trí đầy đủ hệ thống biển báo ATGT, vạch sơn phân làn phản quang,... theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ QCVN41:2016/BGTVT; tại các vị trí giao cắt với đường địa phương có lưu lượng giao thông lớn được điều tiết bằng hệ thống đèn tín hiệu.
Hệ thống hệ thống ATGT (biển báo, đèn tín hiệu, vạch sơn phân làn phản quang,...) đã được sự thống nhất của các cơ quan liên quan của địa phương (Sở GTVT, Cảnh sát giao thông, Ban ATGT tỉnh) và hoàn thiện trước khi đưa vào sử dụng.
Tuy nhiên, trong quá trình khai thác trên tuyến tránh xảy ra tình trạng tái lấn chiếm mặt bằng, xây dựng trái phép trong hành lang an toàn đường bộ (khu dân cư, kho bãi,...), gây nguy cơ mất ATGT cho người và phương tiện khi tham gia giao thông một cách nghiêm trọng, đồng thời cũng phát sinh một số vấn đề cần nghiên cứu, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống ATGT trên tuyến. Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA 8, Nhà đầu tư rà soát nghiêm cứu đề xuất các giải pháp phù hợp.
2. Về các kiến nghị của cử tri tỉnh Tiền Giang:
- Bổ sung hạng mục lắp đặt hệ thống chiếu sáng trên tuyến tránh Quốc lộ 1, đoạn qua thị xã Cai Lậy tại những đoạn tuyến có nguy cơ mất an toàn giao thông cao. Bộ GTVT đã yêu cầu Nhà đầu tư chỉ đạo tư vấn thiết kế nghiên cứu và lấy ý kiến của Sở GTVT tỉnh Tiền Giang, Ban An toàn giao thông tỉnh Tiền Giang, trước khi triển khai.
- Thi công đường chui dân sinh dưới 03 cầu Ông Mười, Ba Muồng và Bình Phú trên tuyến tránh. Hiện nay, thiết kế của hạng mục đã được phê duyệt, đồng thời Nhà đầu tư đã có giải pháp đối với các đường chui dưới cầu Ông Mười, Ba Muồng để phương tiện xe máy và người dân có thể lưu thông tạm thời.
Bộ Giao thông vận tải sẽ chỉ đạo Nhà đầu tư thực hiện hạng mục này trong thời gian sớm nhất.
- Công tác lắp đặt bổ sung đầy đủ thiết bị an toàn giao thông theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ QCVN 41:2016/BGTVT như cột Km, cọc tiêu, biển báo...
Nhà đầu tư đã thực hiện công tác bổ sung sung các thiết bị an toàn giao thông trên tuyến theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ QCVN 41:2016/GTVT.
3. Đối với tình trạng tái lấn chiếm mặt bằng, xây dựng trái phép trong hành lang an toàn đường bộ, Bộ GTVT kính mong Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Tiền Giang có sự hỗ trợ trong quá trình làm việc với các cơ quan liên quan của địa phương để giải quyết các tồn tại nêu trên.
3. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo an toàn giao thông, an ninh trật tự xã hội. Tăng cường công tác kiểm tra, có chế tài xử lý nghiêm khắc tình trạng xe quá khổ, quá tải lưu thông trên các tuyến đường để không ảnh hưởng đến chất lượng cơ sở hạ tầng, đảm bảo giao thông đi lại của nhân dân được an toàn lành mạnh.
Trả lời: Tại công văn số 36/BGTVT-ATGT ngày 03/01/2018
Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 06 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; bên cạnh đó, trong 11 tháng năm 2017 (từ ngày 16/12/2016 đến 15/11/2017), cả nước xảy ra 18.384 vụ, làm chết 7.604 người, làm bị thương 15.189 người; so với cùng kỳ năm 2016, giảm 1.045 vụ (giảm 5,38%), giảm 303 người chết (giảm 3,83%), giảm 1.995 người bị thương (giảm 11,61%).
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm TTATGT và kéo giảm tai nạn giao thông, Bộ Giao thông vận tải và các Bộ, ngành, địa phương đã và đang triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT theo chỉ đạo của Chính phủ, trong đó chú trọng thực hiện các nội dung sau:
1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT; đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 sửa đổi và thay thế Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, trong đó đã nâng mức xử phạt đối với chủ xe, lái xe, người xếp hàng hóa nhằm bảo đảm tính răn đe và khả thi khi thực hiện; hiện nay, Bộ GTVT cũng đang trình Chính phủ Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô.
2. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông, đặc biệt là về chủ đề kiểm soát tải trọng xe; Bộ GTVT đã có văn bản giải thích, hướng dẫn, tuyên truyền đến Hiệp hội vận tải hàng hóa đường bộ và cử tri của một số địa phương những quy định mới của pháp luật về kiểm soát tải trọng xe; đồng thời, đã tổ chức các Hội nghị tập huấn để hướng dẫn và nâng cao nghiệp vụ cho lực lượng Thanh tra ngành GTVT trong hoạt động thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính nói chung và trong công tác kiểm soát tải trọng phương tiện nói riêng.
3. Triển khai rà soát, xử lý các điểm đen, điểm tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông trên đường bộ, đường sắt, thực hiện điều chỉnh, bổ sung hợp lý hệ thống báo hiệu đường bộ, thiết bị an toàn giao thông, bổ sung rào hộ lan, đường cứu nạn trên các tuyến đường bộ qua khu vực đèo dốc quanh co; tăng cường thực hiện công tác thẩm định, thẩm tra ATGT đối với các dự án xây dựng mới, nâng cấp cải tạo đường bộ và các tuyến đường bộ đang khai thác có nguy cơ mất an toàn giao thông cao.
4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm tình trạng xe quá khổ, quá tải lưu thông trên các tuyến đường để không ảnh hưởng đến chất lượng cơ sở hạ tầng, đảm bảo giao thông đi lại của nhân dân được an toàn lành mạnh:
- Đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông; đồng thời, đã ban hành Kế hoạch số 12885/KH-BGTVT ngày 01/11/2016 về việc tiếp tục tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện.
- Đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng Trạm kiểm tra tải trọng xe cố định theo Quy hoạch đã được Thủ tướng phê duyệt (tại Quyết định số 1885/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2016); hiện đang chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam khẩn trương hoàn thiện thiết kế mô hình mẫu Trạm kiểm tra tải trọng xe cố định để làm cơ sở triển khai lắp đặt tại các vị trí Trạm theo quy hoạch được phê duyệt. Các Trạm có kết nối dữ liệu về Tổng cục Đường bộ Việt Nam, việc xử lý vi phạm sẽ được tiến hành công khai và minh bạch.
- Phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải: quản lý, vận hành các Trạm kiểm tra tải trọng xe (do Bộ GTVT trang cấp) và kiện toàn, tổ chức lại hoạt động của Trạm kiểm tra tải trọng xe phù hợp với tình hình của địa phương; rà soát, kiểm tra tại các đơn vị, địa phương về việc tổ chức ký cam kết kiểm soát tải trọng phương tiện, không chở hàng quá trọng tải, không xếp hàng hóa lên xe quá trọng tải cho phép; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện cam kết đã ký.
- Tăng cường kiểm tra đôn đốc về công tác kiểm soát tải trọng phương tiện của các cơ quan, đơn vị, địa phương: Trong năm 2017, Bộ GTVT đã thành lập Đoàn kiểm tra công tác kiểm soát tải trọng xe tại các cảng biển, các mỏ vật liệu trên địa bàn một số địa phương (như: Hòa Bình, Hà Nam, Phú Yên, Bình Dương, Đồng Nai, An Giang và Cần Thơ). Kiểm tra tại các địa phương, Đoàn Kiểm tra đã kiến nghị Thanh tra Sở GTVT các địa phương xử lý vi phạm hành chính đối với một số đơn vị vi phạm về việc bốc xếp lên phương tiện vi phạm tải trọng theo quy định của pháp luật.
- Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan đơn vị trong ngành tăng cường phối hợp với các lực lượng chức năng của Bộ Công an trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông nói chung và trong công tác kiểm soát tải trọng phương tiện nói riêng nhằm chia sẻ thông tin trong việc kiểm soát tải trọng phương tiện và xử lý vi phạm hành chính, góp phần đảm bảo giao thông đi lại của nhân dân được an toàn và lành mạnh.
4. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải bổ sung một số hành vi vi phạm TTATGT bị xử lý hành chính như: hành vi không kịp thời duy tu, bảo dưỡng công trình đường bộ đã được giao quản lý hoặc xây dựng mới, duy tu bảo dưỡng không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, không bảo đảm an toàn giao thông; các xe tải chế thêm hệ thống tưới nước vào lốp xe khi lưu hành hoặc phun nước ra đường phá hoại công trình giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 110/BGTVT-ATGT ngày 05/01/2018
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong năm 2016, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2016). Trong quá trình xây dựng Nghị định này, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm có nguy cơ cao gây mất an toàn giao thông; đồng thời đã điều chỉnh chế tài xử phạt cho tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, đảm bảo tính răn đe và khả thi khi thực hiện.
Đối với các hành vi vi phạm quy định về quản lý, khai thác, bảo trì, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (như kiến nghị của cử tri), hiện đã được quy định tại Điều 15 của Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, cụ thể: sẽ phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với tổ chức được giao quản lý, khai thác bảo trì kết cầu hạ tầng giao thông đường bộ không có biện pháp khắc phục kịp thời các hư hỏng của công trình đường bộ gây mất an toàn giao thông (điểm a khoản 3) hoặc không thực hiện đầy đủ các nội dung quy định trong quy trình quản lý, vận hành, khai thác, bảo trì đường bộ đã được phê duyệt (điểm d khoản 3).
Đối với đề xuất bổ sung hành vi và chế tài xử phạt đối với trường hợp các xe tải chế thêm hệ thống tưới nước vào lốp xe khi lưu hành hoặc phun nước ra đường phá hoại công trình giao thông, Bộ Giao thông vận tải xin ghi nhận và sẽ tổng hợp để nghiên cứu, đề xuất Chính phủ xem xét bổ sung hành vi trên khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Nghị định số 46/2016/NĐ-CP.
5. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải sửa đổi các quy định về quy tắc giao thông để có cách hiểu thống nhất như quy định về sử dụng làn đường, quy định về dừng, đỗ xe, một số quy định về đường cao tốc, điều kiện kinh doanh vận tải và các quy định liên quan đến đảm bảo trật tự an toàn giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 190/BGTVT-PC ngày 08/01/2018
Các nội dung liên quan đến quy tắc giao thông (quy định về sử dụng làn đường, quy định về dừng, đỗ xe), quy định về đường cao tốc, quy định về điều kiện kinh doanh vận tải và các quy định khác liên quan đến bảo đảm trật tự an toàn giao thông đang được điều chỉnh ở Luật Giao thông đường bộ 2008 và các văn bản hướng dẫn chi tiết. Qua theo dõi, tổng kết thi hành Luật Giao thông đường bộ 2008 cho thấy một số quy định đã gây ra cách hiểu chưa thống nhất như kiến nghị của cử tri, một số nội dung còn chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội, một số điều kiện kinh doanh vận tải còn chưa hợp lý, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó, để xử lý các bất cập nêu trên, Bộ Giao thông vận tải đang lập hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và dự kiến trình Chính phủ trong năm 2018 để Chính phủ xem xét. Sau khi Chính phủ biểu quyết thông qua hồ sơ đề nghị xây dựng luật, Bộ Giao thông vận tải sẽ đăng ký vào chương trình và triển khai việc xây dựng luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
6. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Phối hợp với Bộ Công thương có giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các công trình cấp điện dọc theo các tuyến giao thông thông đường bộ, đảm bảo an toàn hành lang đường bộ, an toàn lưới điện và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Trả lời: Tại công văn số 420/BGTVT-KCHT ngày 15/01/2018
Bộ Giao thông trân trọng cảm ơn cử tri và các Đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ đã quan tâm, góp ý nhằm giúp công tác quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải ngày càng tốt hơn, đáp ứng nhu cầu của xã hội và nhân dân. Về nội dung nêu trên, Bộ Giao thông vận tải xin trả lời như sau:
Ngày 06/02/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020, trong đó giao “Bộ GTVT chủ trì, phối hợp Bộ Công thương, Bộ Xây dựng rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục thỏa thuận vị trí cột hoặc trạm điện và hành lang lưới điện, cấp phép thi công công trình điện trong trường hợp công trình điện nằm toàn bộ hoặc một phần trên đất công trình đường bộ theo quy định tại Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng đường bộ”;
Thực hiện Nghị quyết trên của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT ngày 09/10/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Thời gian chấp thuận xây dựng cùng thời điểm với cấp phép thi công trong nội dung Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT mới ban hành nêu trên cho các công trình thiết yếu trong phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của quốc lộ đang khai thác đã được rút ngắn; cụ thể đối với thời gian cấp phép công trình đường dây tải điện, thông tin, viễn thông vượt phía trên đường bộ từ 14 ngày làm việc còn 10 ngày. Đồng thời, một số nội dung liên quan khác như: Phạm vi bảo vệ trên không của công trình đường bộ, khoảng cách an toàn đường bộ theo chiều ngang đối với công trình thiết yếu … đã được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện tối đa cho các tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu xây dựng công trình thiết yếu trong phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, nhưng vẫn đảm bảo các quy định của pháp luật về bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
Như vậy, Bộ Giao thông vận tải đã chủ động, tích cực phối hợp các Bộ ngành liên quan để tháo gỡ khó khăn đối với các công trình điện dọc các tuyến giao thông và nay, tiếp tục nhận được phản ánh, kiến nghị của cử tri, làm cơ sở hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy liên quan.
7. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ GTVT cần nhanh chóng có giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết tình trạng kẹt xe, ùn tắc giao thông và hạn chế tai nạn giao thông ở những tỉnh thành đông phương tiện giao thông trong thời gian sắp tới.
Trả lời: Tại công văn số 494/BGTVT-VT ngày 16/01/2018
Đề giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông tại các đầu mối giao thông, các cửa ngõ thành phố cần tiếp tục triển khai thực hiện như sau:
- Khẩn trương hoàn thành và đưa vào khai thác tuyến đường sắt đô thị và khai thác có hiệu quả tuyến xe buýt nhanh vận chuyển khối lượng lớn (BRT) tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong tổ chức và điều hành vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, phát triển hệ thống vé liên tuyến đồng thời nghiên cứu ngay để áp dụng vé điện tử sử dụng đồng bộ cả đường sắt đô thị và xe buýt; xây dựng hầm chui, cầu vượt tại các nút giao thông có mật độ phương tiện cao; Xây dựng hệ thống vận tải đô thị khối lượng lớn tại các đô thị đặc biệt như tàu điện ngầm, đường sắt đô thị, xe buýt BRT theo quy hoạch đã được duyệt; hiện đại hóa Trung tâm điều hành giao thông công cộng tại các thành phố lớn; áp dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông đô thị, đặc biệt là ứng dụng sử dụng vé điện tử, ứng dụng hệ thống đỗ xe thông minh...
- Tổ chức và phân làn giao thông phù hợp tại các tuyến đường, nhất là khu vực trung tâm thành phố, chú trọng việc tổ chức giao thông một chiều để tránh xung đột đồng thời tăng cường ưu tiên cho phương tiện công cộng.
- Đẩy mạnh hoạt động tuần tra kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) theo Nghị định số 46/2016/NĐ-CP. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc phát hiện và xử lý vi phạm. Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các sai phạm của người thực thi công vụ trong khi làm nhiệm vụ.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT tới mọi thành phần trong hoạt động GTVT, trong đó chú trọng vào tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho người thực thi công vụ; phổ biến quy định pháp luật và xây dựng văn hoá giao thông đối với chủ xe, lái xe kinh doanh vận tải, chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng, đặc biệt là nhóm những người tham gia giao thông bằng mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện; vận động khuyến khích người dân tạo thói quen đi bộ để tiếp cận sử dụng phương tiện giao thông công cộng.
- Tiếp tục thực hiện Quyết định số 280/QĐ-TTg ngày 08/3/2012 phê duyệt đề án phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt giai đoạn 2012 - 2020, Quyết định số 12/2015/QĐ-TTg ngày 16/4/2015 về cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hóa bến xe; Quyết định số 13/2015/QĐ-TTg ngày 05/5/2015 về cơ chế chính sách phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Thủ tướng Chính phủ. Qua đó đẩy mạnh phát triển mạng lưới tuyến xe buýt kết nối từ trung tâm thành phố với khu vực ngoại thành và các đô thị vệ tinh, khuyến khích việc đầu tư các tuyến xe buýt phục vụ học sinh, sinh viên và cán bộ, công nhân viên đi học, đi làm.
- Chính quyền thành phố kiên trì, kiên quyết để lập lại trật tự dành vỉa hè cho người đi bộ, trả lại lòng đường cho người tham gia giao thông; hạn chế, tiến tới loại bỏ việc sử dụng lòng đường làm chỗ đỗ xe; có giải pháp mạnh đối với việc đỗ xe bất hợp pháp; Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân sử dụng phương tiện công cộng kết hợp việc kiên quyết xử lý hành vi lấn chiến hè phố để dành phần đường cho người đi bộ.
- Bổ sung quy hoạch các khu đô thị để đáp ứng quỹ đất dành cho giao thông theo Luật Giao thông đường bộ từ 16% đến 26%; bổ sung, chỉnh sửa quy hoạch xây dựng các khu chung cư cao tầng hoặc các cơ sở dịch vụ phải đảm bảo diện tích để mô tô, xe gắn máy, ô tô; xây dựng bãi đỗ xe nhiều tầng tại khu vực nội thành và các đường vành đai đô thị; Quy hoạch hợp lý hệ thống bến xe khách và điểm trung chuyển vận tải hành khách công cộng, taxi tại các thành phố.
- Tiếp tục thực hiện di dời phù hợp trụ sở các cơ quan hành chính nhà nước, các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, xem xét không đầu tư mở rộng các bệnh viện trong khu vực trung tâm thành phố.
8. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị các ngành, các cấp tiếp tục tăng cường thực hiện các giải pháp hạn chế tai nạn giao thông, quản lý chặt chẽ việc sát hạch cấp giấy phép lái xe, xử lý nghiêm các sai phạm; thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật về an toàn giao thông nhằm nâng cao nhận thức của người dân khi tham gia giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 192/BGTVT-ATGT ngày 08/01/2018
Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông (TNGT) đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí. Đặc biệt năm 2017, là năm đầu tiên trong 5 năm qua, số người tử vong do tai nạn giao thông giảm xuống mức thấp nhất, cụ thể toàn quốc xảy ra 20.080 vụ tai nạn giao thông, làm chết 8.279 người, bị thương 17.040 người. So với năm 2016, tai nạn giao thông giảm 1.509 vụ (-6,99%), giảm 406 người chết (-4,67%), giảm 2.240 người bị thương (-11,62%).
Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri, kết quả đạt được về công tác bảo đảm TTATGT chưa được như mong muốn và còn một số tồn tại hạn chế như: số vụ tai nạn giao thông, số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ gây thiệt hại lớn về người và tài sản, việc xử lý các hành vi vi phạm về bảo đảm TTATGT chưa được thực hiện nghiêm, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông còn kém…; đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội.
Để chấn chỉnh tình trạng này, Chính phủ đã và đang chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm theo chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, trong đó chú trọng một số nhóm giải pháp sau:
1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông như:
- Tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016, quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt theo hướng nâng chế tài xử phạt bảo đảm tính răn đe và khả thi đối với một số hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn giao thông (như điều khiển phương tiện hết niên hạn sử dụng tham gia giao thông; chở quá khổ, quá tải... ).
- Tiếp tục tập trung nghiên cứu, sửa đổi Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo hướng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu lực thi hành pháp luật trong hoạt động kinh doanh vận tải bằng xe ô tô.
2. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; trong đó, đẩy mạnh tuyên truyền các Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính các trong lĩnh vực giao thông vận tải. Tập trung trọng điểm tuyên truyền cho người dân, doanh nghiệp về nguy cơ tiềm ẩn tai nạn giao thông ở mức cao khi sử dụng các phương tiện hết niên hạn sử dụng, các phương tiện chở quá khổ quá tải khi tham gia giao thông. Theo chủ đề Năm an toàn giao thông, hàng năm Bộ Giao thông vận tải yêu cầu các đơn vị chức năng đẩy mạnh, triển khai tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp trong công tác bảo đảm TTATGT.
3. Tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện:
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả Kế hoạch số 12885/KH-BGTVT ngày 01/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện, tập trung các giải pháp ngăn chặn vi phạm từ gốc; tăng cường sử dụng dữ liệu thiết bị giám sát hành trình xe ô tô, kiểm soát tải trọng phương tiện từ khâu xếp hàng lên xe; kiểm soát chặt việc thực hiện quy định về kích thước thành, thùng xe; giám sát, xử phạt nghiêm việc sử dụng phương tiện không bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định.
- Tăng cường chỉ đạo các đơn vị có liên quan theo dõi, giám sát, phát hiện vi phạm và xử lý vi phạm từ thiết bị giám sát hành trình.
- Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng Trạm kiểm tra tải trọng xe cố định theo Quy hoạch đã được Thủ tướng phê duyệt (tại Quyết định số 1885/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2016) và khẩn trương hoàn thiện thiết kế mô hình mẫu Trạm kiểm tra tải trọng xe cố định để làm cơ sở triển khai lắp đặt tại các vị trí Trạm theo quy hoạch được phê duyệt. Các Trạm có kết nối dữ liệu về Tổng cục Đường bộ Việt Nam, việc xử lý vi phạm sẽ được tiến hành công khai và minh bạch.
4. Chỉ đạo Cục Đăng kiểm Việt Nam: rà soát, thống kê danh sách các phương tiện hết niên hạn sử dụng, quá hạn kiểm định để thông báo công khai trên trang mạng của Cục và gửi cho các lực lượng chức năng để phối hợp kiểm soát; yêu cầu các Trung tâm đăng kiểm tăng cường phối hợp với lực lượng Thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông tại địa phương trong việc kiểm soát xử lý xe hết niên hạn sử dụng, xe quá hạn kiểm định.
5. Tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Bộ ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; lắp đặt camera để giám sát quá trình thi tay lái, các bài thi lý thuyết trên máy vi tính; đẩy nhanh việc xây dựng và triển khai Đề án “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng đào tạo, sát hạch và quản lý giấy phép lái xe góp phần bảo đảm an toàn giao thông”. Tiếp tục chỉ đạo thanh tra, kiểm tra trên tất cả các lĩnh vực trong đó tập trung vào các lĩnh vực mang tính thời sự, được dư luận xã hội quan tâm như chất lượng xây dựng công trình, điều kiện kinh doanh vận tải; công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe, đăng kiểm phương tiện…;
6. Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ trong ngành đặc biệt trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông:
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT như: việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh, điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, hoạt động các bến xe ô tô khách; việc chấp hành các quy định pháp luật trong công tác đăng kiểm phương tiện xe cơ giới đường bộ, trong công tác tổ chức giao thông tại một số dự án xây dựng công trình đường bộ trên đường đang khai thác. Tiếp tục tăng cường ứng dụng hệ thống camera giám sát để các cơ quan chức năng làm căn cứ để xử phạt nguội.
- Tăng cường kiểm tra việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức trực tiếp làm nhiệm vụ trong công tác bảo đảm TTATGT để nâng cao hiệu quả công tác, phòng ngừa sai phạm. Tiếp tục yêu cầu lực lượng Thanh tra ngành giao thông vận tải xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về quy trình quản lý, phân công, phân cấp trách nhiệm trong đó tập trung triển khai thực hiện kiểm tra, giám sát nội bộ nhằm phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực có thể xảy ra trong hoạt động nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành.
9. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị: Kiến nghị các ngành liên quan nghiên cứu xem xét bổ sung, sửa đổi quy định Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT theo hướng quy định tốc độ kèm theo điều kiện hạ tầng của các địa phương, chia theo khung và giao Chủ tịch UBND cấp tỉnh căn cứ tiêu chuẩn để quy định tốc độ cụ thể đối với từng tuyến đường trên địa bàn quản lý nhằm phục vụ hiệu quả công tác xử lý vi phạm, phòng ngừa xảy ra TNGT do nguyên nhân tốc độ gây ra.
Trả lời: Tại công văn số 517/BGTVT-KCHT ngày 16/01/2018
Trong Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT đã có quy định khung tốc độ tối đa cho phép xe cơ giới đường bộ theo điều kiện loại đường (về cấp đường, có dải phân cách hay không có dải phân cách) và theo khu vực trong (ngoài) khu vực đông dân cư. Tại Điều 10 của Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT quy định: “Việc đặt biển báo hiệu tốc độ thực hiện theo quy định của pháp luật về báo hiệu đường bộ hiện hành và căn cứ vào tình hình thực tế của đoạn, tuyến đường bộ cho phù hợp”; “Trong quá trình khai thác, đơn vị quản lý đường bộ chịu trách nhiệm theo dõi, chủ động kịp thời điều chỉnh, bổ sung các biển báo cho phù hợp với thực tế và quy định hiện hành.”.
Qua gần 02 năm thực hiện Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT (hiệu lực của thông tư từ ngày 01/3/2016) tình hình trật tự ATGT đường bộ đã có chuyển biến tích cực, tai nạn giao thông trong cả nước giảm trên cả ba tiêu chí; đã được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT là một trong các văn bản quy phạm pháp luật có tác động tốt đối với các doanh nghiệp vận tải. Bộ GTVT sẽ tiếp tục theo dõi, lắng nghe ý kiến của các địa phương và doanh nghiệp vận tải để có cơ sở điều chỉnh bổ sung Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT nhằm tăng cường an toàn giao thông.
10. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Bộ sớm thi công tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và thi công cầu vượt qua sông Ba Rài (thuộc tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận); có kế hoạch lắp đặt hệ thống thoát nước hai bên Quốc lộ 1 thuộc khu phố 2, khu phố 3 thị xã Cai Lậy.
Trả lời: Tại công văn số 729/BGTVT-ĐTCT ngày 22/01/2018
(1) Về đầu tư hệ thống thoát nước hai bên QL1 quaTX. Cai Lậy:
Đoạn tuyến QL1 qua phố 2, khu phố 3 thị xã Cai Lậy thuộc phạm vi dự án đầu tư xây dựng công trình tăng cường mặt đường QL1 đoạn Km1987+560÷Km2014 và xây dựng đoạn tránh thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang theo hình thức hợp đồng BOT. Hiện nay, trạm thu giá Cai Lậy chưa được hoạt động trở lại làm ảnh hưởng lớn đến việc hoàn vốn đầu tư dự án, phát sinh lãi vay; việc bổ sung đầu tư hệ thống thoát nướcsẽ làm tăng chi phí đầu tư của dự án.Tuy nhiên, trên cơ sở kiến nghị của cử tri, Bộ GTVT đã có văn bản số 338/BGTVT-ĐTCT ngày 11/01/2018 chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp Sở GTVT Tiền Giang kiểm tra, khảo sát thực địa để quyết định đầu tư hệ thống thoát nước hai bên QL1 đoạn qua thị xã Cai Lậy (văn bản đã gửi Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang).
(2) Về nội dung liên quan đến dự án cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận:
Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận (sau đây gọi là Dự án) được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT tại Quyết định số 4145/QĐ-BGTVT ngày 31/10/2014 và phê duyệt điều chỉnh tại Quyết định số 1700/QĐ-BGTVT ngày 15/6/2017. Dự án có điểm đầu tại nút giao Thân Cửu Nghĩa (nối tiếp cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương); điểm cuối tại nút giao An Thái Trung, giao với QL30 và kết nối với QL1 tại nút giao An Hữu (trước cầu Mỹ Thuận); chiều dài tuyến cao tốc 51,5km,chiều dài tuyến nối khoảng 4,5km. Giai đoạn 1 đầu tư tuyến cao tốc với bề rộng nền đường 17m (4 làn xe cao tốc, làn dừng xe khẩn cấp bố trí cách quãng), 04 nút giao khác mức liên thông và các tuyến đường nối theo quy mô đường cấp III - Đồng bằng với tổng mức đầu tư là 9.668,5 tỷ đồng (trong đó giải phóng mặt bằng thực hiện cho giai đoạn hoàn thiện 6 làn xe; chi phí là 1.858,5 tỷ đồng). Nhà đầu tư phải thu xếp 1.542,8 tỷ đồng từ vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và khoảng 8.125,7 tỷ đồng từ khoản vay thương mại.
Sau khi dự án được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (số 109/BKHĐT-GCNĐKĐTTN ngày 21/01/2016), Bộ GTVT đã ký hợp đồng với Nhà đầu tư là Liên danh Công ty CP đầu tư xây dựng Tuấn Lộc - Công ty CP tập đoàn Yên Khánh - Công ty CP đầu tư xây dựng BMT - Công ty TNHH tập đoàn Thắng Lợi - Công ty CP Hoàng An - Công ty CP đầu tư cầu đường CII (Hợp đồng số 14/HĐ.BOT-BGTVT ngày 18/11/2016) để thực hiện dự án.
Trong thời gian vừa qua, công tác giải phóng mặt bằng được địa phương tích cực triển khai, Nhà đầu tư phối hợpvà chuyển kinh phí kịp thời nên đến nay nhà đầu tư đã nhận mặt bằng của 47/51,5km (đạt 91,4%), cơ bản đủ công địa để triển khai thi công. Hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công đã cơ bản hoàn thành trên toàn dự án và nhà đầu tư đã triển khai thi công trên công trường. Đối với cầu qua sông Ba Rài, nhà thầu đã tập kết thiết bị và triển khai thi công, hoàn thành 02 trụ và toàn bộ công tác đóng cọc thử. Hiện dự án đang còn có vướng mắc trong việc huy động nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng và Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính xem xét, có giải pháp tháo gỡ làm cơ sở cho Nhà đầu tư tiếp tục đàm phán với các ngân hàng tài trợ vốn cho dự án. Do khó khăn trong việc huy động vốn tín dụng nên tiến độ dự án có bị chậm lại so với kế hoạch ban đầu; sau khi vướng mắc về nguồn vốn được tháo gỡ, dự kiến sẽ có thể hoàn thành dự án trong năm 2020.
Để triển khai dự án thành công, đảm bảo chất lượng, tiến độ, Bộ GTVT và Nhà đầu tư rất cần sự hỗ trợ của các cấp, các bộ, ngành và địa phương, đặc biệt trong vấn đề giải phóng mặt bằng và huy động nguồn vốn tín dụng. Bộ GTVT trân trọng đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh tiếp tục hỗ trợ để sớm hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng dự án và tuyên truyền, giải thích để cử tri hiểu, ủng hộ chủ trương của Đảng, Chỉnh phủ trong việc triển khai các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT nói chung và các dự án trên địa bàn Tỉnh nói riêng (dự án tăng cường mặt đường và xây dựng QL1 đoạn tránh thị xã Cai Lậy; dự án cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận). Song song đó, Bộ GTVT sẽ quyết liệt chỉ đạo, phối hợp Nhà đầu tư khắc phục vướng mắc của dự án để sớm ký được hợp đồng tín dụng với ngân hàng, đảm bảo đủ nguồn vốn triển khai dự án, kịp thời kết nối với các dự án đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông sẽ cơ bản hoàn thành vào năm 2021 theo chỉ đạo của Quốc hội tại Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/10/2017.
11. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ cần tăng cường công tác đánh giá sự cần thiết phải triển khai xây dựng công trình kết cấu hạ tầng dưới hình thức BOT, đảm bảo hình thức đầu tư có lợi nhất cho người dân. Cần rà soát quy hoạch mạng lưới hạ tầng giao thông để xác định tuyến đường nào cần đầu tư BOT, tuyến đường nào có thể đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước. Cần thiết nên sử dụng vốn từ nguồn ngân sách và quỹ bảo trì đường bộ để đầu tư cải tạo, nâng cấp những tuyến đường huyết mạch của quốc gia như Quốc lộ 1 và Quốc lộ 14 (đường Hồ Chí Minh).
Trả lời: Tại công văn số 874/BGTVT-ĐTCT ngày 24/01/2018
Thực tế, trong những năm vừa qua, nguồn vốn Ngân sách nhà nước rất hạn hẹp luôn không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư đồng bộ hạ tầng giao thông. Do vậy, trong điều kiện nguồn lực đầu tư công khó khăn, việc phát triển các dự án hạ tầng theo hình thức đối tác công tư là phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng.
Để đánh giá một cách toàn diện về kết quả đạt được và những tồn tại, bất cập trong việc thu hút nguồn lực tư nhân phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT, BT, Bộ GTVT đã tổ chức “Hội nghị đánh giá công tác đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp đồng BOT và BT giai đoạn 2011÷2015 do Bộ GTVT quản lý”. Đồng chủ trì Hội nghị có Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và được Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng tham dự, chỉ đạo; tham dự hội nghị còn có các cơ quan thanh tra, kiểm toán, các chuyên gia, các hiệp hội vận tải và tổ chức tín dụng... Hội nghị đã đánh giá khách quan, toàn diện và thống nhất những kết quả đạt được, cũng như chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Kết quả hội nghị đã được Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Ủy Ban kiểm tra Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan liên quan tại văn bản số 7271/BGTVT-ĐTCT ngày 27/6/2016.
Đồng thời, thực hiện Kế hoạch giám sát chuyên đề của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT, Chính phủ đã có báo cáo số 334/BC-CP ngày 10/8/2017), Đoàn giám sát đã có báo cáo số 177/BC-ĐGS ngày 11/8/2017 báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ngày 21/10/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư, khai thác các công trình giao thông theo hình thức BOT. Theo đó, Nghị quyết có nêu: “Việc thực hiện chủ trương huy động nguồn lực xã hội, trong đó có hình thức hợp đồng BOT là đúng đắn, giúp giảm bớt gánh nặng của ngân sách nhà nước”.
Thực hiện chủ trương của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017, Bộ GTVT đang chỉ đạo rà soát, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới hạ tầng giao thông đồng bộ trong phạm vi cả nước. Lựa chọn đầu tư các dự án giao thông theo thứ tự ưu tiên phù hợp với từng hình thức đầu tư dựa trên lợi thế, đặc điểm của từng vùng cũng như tính cấp thiết, liên thông trong cả hệ thống quy hoạch hệ thống giao thông. Đối với các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để đảm bảo quyền lựa chọn của người dân, không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu. Do vậy, trong thời gian tới, việc tiếp tục thực hiện nâng cấp, sửa chữa các tuyến quốc lộ hiện hữu sẽ được sử dụng vốn từ nguồn ngân sách hoặc quỹ bảo trì đường bộ.
12. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo sớm triển khai đầu tư xây dựng cảng nước sâu Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và khu vực.
Trả lời: Tại công văn số 694/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018
Theo Quyết định số 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 2369/BGTVT-KHĐT ngày 29/7/2016 của Bộ GTVT phê duyệt Quy hoạch chi tiết Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ, cảng biển Đà Nẵng là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (Loại I), về lâu dài có khả năng phát triển để đảm nhận vai trò cửa ngõ quốc tế ở khu vực miền Trung (loại IA), bao gồm các khu bến chức năng: Tiên Sa, Thọ Quang (Sơn Trà) và Liên Chiểu; trong đó Khu bến Liên Chiểu trước mắt có chức năng chính là chuyên dùng hàng rời, hàng lỏng phục vụ trực tiếp các cơ sở công nghiệp dịch vụ tại đây. Về lâu dài (nghiên cứu trước 2020, đầu tư sau năm 2020) sẽ từng bước phát triển để đảm nhận vai trò khu bến chính của cảng cửa ngõ quốc tế tại khu vực miền Trung (nếu có điều kiện), tiếp nhận tàu trọng tải 100.000 tấn, tàu công ten nơ có sức chở từ 6.000 đến 8.000 TEU; tương lai hỗ trợ bến Tiên Sa khi phát triển hết công suất; năng lực thông qua năm 2030 khoảng 8,0 - 10,0 triệu tấn/năm.
Như vậy, theo quy hoạch được duyệt, Khu bến cảng Liên Chiểu đã được Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT xác định sẽ là khu bến chính, có vai trò quan trọng của cảng cửa ngõ quốc tế khu vực miền Trung, được nghiên cứu trước 2020, đầu tư sau năm 2020.
Thời gian qua, Bộ GTVT đã cùng UBND thành phố Đà Nẵng tích cực phối hợp để đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông của thành phố Đà Nẵng với mục tiêu phát triển là một trong những đô thị lớn của cả nước, thành phố cửa ngõ, là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội, động lực phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, phát triển theo hướng bền vững, giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại. Đối với chuyên ngành hàng hải, dự án đầu tư xây dựng bến cảng Tiên Sa giai đoạn 1 đã hoàn thành đầu tư, khai thác sử dụng năm 2007; giai đoạn 2 với tổng mức đầu tư 1.100 tỷ đồng vừa hoàn thành và công bố đưa vào sử dụng đầu tháng 01/2018.
Trên tinh thần tiếp tục phát huy sự phối hợp chặt chẽ trong công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, Bộ GTVT và Thành phố Đà Nẵng đã nhiều lần tổ chức họp để thảo luận đối với việc nghiên cứu phát triển bến cảng Liên Chiểu. Qua đó đã thống nhất thống nhất chủ trương nghiên cứu và hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng cảng Liên Chiểu trước năm 2020; đồng thời Bộ GTVT đề nghị UBND thành phố Đà Nẵng chỉ đạo Tư vấn cập nhật số liệu về lượng hàng hóa thông qua, giao thông kết nối cảng, hoàn chỉnh nghiên cứu tiền khả thi dự án và đề xuất tiến độ triển khai dự án đảm bảo khi lượng hàng hóa thông qua khu bến Tiên Sa đạt 10 triệu tấn/năm bằng đường bộ thì khu bến mới tại Liên Chiểu đủ điều kiện đi vào khai thác; duy trì điều kiện khai thác khu bến cảng Tiên Sa để đảm bảo hiệu quả đầu tư khu bến Tiên Sa Giai đoạn 2 mới hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Thực hiện các ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại các Thông báo số 229/TB-VPCP ngày 11/8/2016 và Thông báo số 363/TB-VPCP ngày 04/11/2016 của Văn phòng Chính phủ, UBND thành phố Đà Nẵng đã có văn bản số 6658/UBND-SGTVT ngày 25/8/2017 về việc “báo cáo đề xuất đầu tư dự án Cảng Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” cùng Hồ sơ Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng bến cảng biển Liên Chiểu; Bộ GTVT đã có văn bản số 13381/BGTVT-KHĐT ngày 27/11/2017 tham gia ý kiến đối với Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng bến cảng biển Liên Chiểu.
Trên cơ sở đó, UBND thành phố Đà Nẵng đã có văn bản số 9964/UBND-SGTVT ngày 11/12/2017 báo cáo Thủ tướng Chính phủ “xin chủ trương đầu tư xây dựng bến cảng Liên Chiểu (giai đoạn 1), thành phố Đà Nẵng”; Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 1997/TTg-CN ngày 28/12/2017 giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ GTVT và các cơ quan liên quan tổ chức thẩm định Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng bến cảng biển Liên Chiểu.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1997/TTg-CN ngày 28/12/2017 nêu trên, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chủ động phối hợp chặt chẽ, kịp thời với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan trong quá trình triển khai thẩm định Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng bến cảng biển Liên Chiểu.
13. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ánh, dự án đường sắt Đà Nẵng tại phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu đã 14 năm nay chưa triển khai, người dân trong khu vực không xây dựng nhà được, trong đó có nhiều gia đình cả 3 thế hệ ở chung cũng không thể tách thửa, làm nhà để ổn định cuộc sống; hơn nữa, nhà ga hiện tại đang nằm trong trung tâm thành phố nên áp lực rất lớn về vấn đề giao thông. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo sớm triển khai dự án này.
Trả lời: Tại công văn số 113/BGTVT-ĐTCT ngày 05/01/2018
Việc di dời ga đường sắt Đà Nẵng là một trong những nội dung quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng của thành phố Đà Nẵng, đã được xác định tại Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Kết luận số 75-KL/TW ngày 12/11/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI). Đây là Dự án cấp thiết cần triển khai, là nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Dự án di dời ga đường sắt Đà Nẵng nằm quy hoạch chi tiết hiện đại hóa đường sắt Bắc - Nam đã được Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải phê duyệt tại Quyết định số 2477/QĐ-BGTVT ngày 09/7/2015 và quy hoạch phát triển giao thông vận tải của thành phố Đà Nẵng đã được phê duyệt tại Quyết định số 5030/QĐ-UBND ngày 28/7/2014. Tuy nhiên, theo quy hoạch chi tiết hiện đại hóa đường sắt Bắc - Nam việc đầu tư Dự án thuộc đối tượng ưu tiên 3 sau khi hoàn thành các hạng mục ưu tiên 2 như: cải tạo khu vực đèo Hải Vân, đèo Khe Nét, khu gian Hòa Duyệt - Thanh Luyện; cải tạo, nâng cấp các cầu yếu, hầm yếu; cải tạo bình diện tuyến, mở thêm đường trong ga, kéo dài đường ga…
Do nguồn vốn đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020 được Quốc hội bố trí cho Bộ GTVT là rất hạn hẹp; đối với lĩnh vực đường sắt, hiện nay Bộ Giao thông vận tải đang tập trung sử dụng vốn vay từ nhà tài trợ vào các dự án có tính chất cấp bách theo chiến lược phát triển GTVT đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch tổng thể phát triển GTVT đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/02/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015); sử dụng để trả nợ xây dựng cơ bản, đầu tư vào những dự án cấp bách khác nhằm đảm bảo an toàn giao thông, nâng cao năng lực chạy tàu mà vẫn chưa được bố trí vốn.
Thực hiện chủ trương của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 363/TB-VPCP ngày 04/11/2016, UBND thành phố Đà Nẵng và Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu quy mô và các phương án đầu tư đảm bảo thuận lợi cho việc thực hiện dự án; đồng thời tổ chức họp bàn để thống nhất nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án di dời ga đường sắt Đà Nẵng. Ngày 28/11/2017, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 13430/BGTVT-ĐTCT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án và nguồn vốn đầu tư dự án di dời ga đường sắt Đà Nẵng với nội dung chính như sau:
- Phương án đầu tư: nghiên cứu phương án phân kỳ đầu tư theo hai giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: xây dựng tuyến đường sắt mới với tổng chiều dài 18,26 km; xây dựng ga Đà Nẵng mới với chức năng như ga Đà Nẵng hiện tại; nâng cấp ga Lệ Trạch để đảm nhận khối lượng xếp dỡ của ga Đà Nẵng hiện tại; xây dựng mới 02 cầu đường sắt; 01 cầu đường bộ vượt đường sắt; 04 đường ngang; xây dựng khu đầu máy toa xe tại khu ga mới và hệ thống thông tin tín hiệu đảm bảo phục vụ chạy tàu. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 3.393 tỷ đồng (khoảng 149,622 triệu USD);
+ Giai đoạn 2: xây dựng mới ga hàng hóa Kim Liên; xây dựng cầu vượt tại 04 đường ngang đường sắt; đầu tư đồng bộ hệ thống thông thông tin tín hiệu với dự án Vinh - Nha Trang. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 2.371 tỷ đồng (khoảng 102,527 triệu USD).
- Hình thức đầu tư và nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1: đầu tư công kết hợp doanh nghiệp tự đầu tư. Phương án sơ bộ như sau:
+ Thành phố Đà Nẵng góp vốn thực hiện công tác GPMB: khoảng 1.192 tỷ đồng tỷ đồng (đã bao gồm chi phi dự phòng) thông qua khai thác quỹ đất toàn bộ khu vực nhà ga cũ (đấu giá đất theo quy định pháp luật).
+ Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đầu tư: 86 tỷ đồng (để nâng cấp ga Lệ Trạch) thông qua hình thức Hợp tác kinh doanh;
+ Ngân sách Trung ương: 2.115 tỷ đồng (chiếm 62,3% tổng mức đầu tư giai đoạn 1).
Hiện nay, Văn phòng Chính phủ đang xin ý kiến các bộ, ngành và các cơ quan liên quan trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định nguồn vốn, thời điểm nghiên cứu, thực hiện đầu tư phù hợp với nguồn vốn và điều kiện cụ thể của dự án.
Sau khi có ý kiến Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục phối hợp với UBND thành phố Đà Nẵng trong việc triển khai di dời ga Đà Nẵng và tái phát triển đô thị.
14. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ quan tâm đầu tư cầu Thọ Tường, Yên Xuân đi Trường Sơn, Đức Thọ và cầu Vĩnh Khánh nối Trường Sơn, Đức Thọ với Sơn Tân, Hương Sơn và các tuyến đường vượt lũ thuộc dự án sống chung với lũ của các xã ngoài đê sông La do nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Trả lời: Tại công văn số 829/BGTVT- KHĐT ngày 23/01/2018
Những năm qua Chính phủ đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ các tỉnh xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, công trình cầu dân sinh v.v.. như: Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện nghèo theo Nghị quyết 30ª; Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới ..v..v... Bộ GTVT với trách nhiệm của mình cũng đã tích cực huy động các nguồn vốn ODA để hỗ trợ các địa phương như Dự án cầu giao thông nông thôn vốn Nhật Bản; các Dự án giao thông nông thôn 1,2,3 (vốn Ngân hàng Thế giới và Bộ Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh).
Hiện nay, Bộ GTVT đang thực hiện Chương trình xây dựng cầu dân sinh đảm bảo an toàn giao thông vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 với nội dung chính: Đầu tư xây dựng 3.102 cầu với tổng mức đầu tư là 8.335 tỷ đồng trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số thuộc 50 tỉnh/thành. Bộ GTVT đã triển khai các Đề án/Dự án thành phần thuộc Chương trình như:
1. Đề án xây dựng 186 cầu treo dân sinh đảm bảo an toàn giao thông trên phạm vi 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên với tổng vốn đầu tư là 931,7 tỷ đồng (tỉnh Hà Tĩnh được đầu tư 04 cầu/290md).
2. Dự án “Xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương” (LRAMP) với TMĐT 9.203,4 tỷ đồng . Dự án sẽ đầu tư xây dựng 676 km đường cho 14 tỉnh với kinh phí 3.038,3 tỷ đồng (tỉnh Hà Tĩnh được đầu tư 10 tuyến dài 51,8 km với kinh phí 207 tỷ đồng); xây dựng 2.272 cầu dân sinh với kinh phí 5.798 tỷ đồng (tỉnh Hà Tĩnh được đầu tư xây dựng 81 cầu với kinh phí 136,21 tỷ đồng).
Đối với các cầu và tuyến đường vượt lũ mà cử tri tỉnh Hà Tĩnh đề nghị đầu tư nêu trên thuộc hệ thống giao thông địa phương, vì vậy theo quy định của Luật giao thông đường bộ và Luật ngân sách nhà nước, kinh phí đầu tư xây dựng các công trình này thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương.
Bộ GTVT xin ghi nhận ý kiến của cử tri tỉnh Hà Tĩnh, đồng thời đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh chủ động cân đối ngân sách và huy động mọi nguồn vốn hợp pháp để từng bước đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông địa phương trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đi lại an toàn, thuận lợi cho nhân dân.
15. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo và đôn đốc nhà thầu sớm đẩy nhanh tiến độ thi công Quốc lộ 37 để đảm bảo an toàn giao thông, an ninh Quốc phòng, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của các địa phương có Quốc lộ 37 đi qua.
Trả lời: Tại công văn số 496/BGTVT-CQLXD ngày 16/01/2018
Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 37 qua địa phận huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng và các huyện Linh Giang, Tứ Kỳ, Gia Lộc tỉnh Hải Dương đoạn Km23+200 – Km47+888 được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3177/QĐ-BGTVT ngày 30/10/2009 với tổng mức đầu tư 1.254 tỷ đồng (sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).
Dự án triển khai xây dựng từ năm 2010, tuy nhiên do khó khăn về nguồn vốn (mới bố trí được 725,5 tỷ đồng) nên đến nay mới hoàn thành một số hạng mục quan trọng, xung yếu là công trình cầu Chanh và đường hai đầu cầu (Km24+200÷Km27+500), công trình cầu Ràm và đường dẫn hai đầu cầu (Km32+060 ÷ Km34+800). Đối với phần đường còn lại dài 17,96Km hiện đang thi công dở dang, một số đoạn tuyến đã tạm dừng thi công do thiếu vốn (nhu cầu vốn cần thiết để thi công hoàn thành các hạng mục còn trên 500 tỷ đồng). Để giảm thiểu ảnh hưởng đến việc đi lại của nhân dân, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Sở GTVT Hải Dương (Chủ đầu tư), nhà thầu thi công tổ chức đảm bảo giao thông trên tuyến như sửa chữa mặt đường hư hỏng, thi công hệ thống thoát nước đoạn qua khu vực đông dân cư, duy trì công tác điều tiết đảm bảo giao thông, không để xảy ra tình trạng ùn tắc kéo dài trên tuyến.
Hiện nay, nguồn vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 bố trí cho Bộ Giao thông vận tải hạn chế và theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tiêu chí phân bổ nguồn vốn này, chủ yếu tập trung trả nợ đọng xây dựng cơ bản, hoàn trả nguồn vốn ứng trước và vốn đối ứng ODA, không còn kinh phí để đầu tư hoàn thành 27 dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đang triển khai dở dang, trong đó có Dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 37 đoạn Vĩnh Bảo – Gia Lộc.
Bộ Giao thông vận tải đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương báo cáo và kiến nghị Quốc hội xem xét, bổ sung nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020 cho Bộ Giao thông vận tải để thực hiện hoàn thành các dự án còn dở dang nêu trên, trong đó có Dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 37 đoạn Vĩnh Bảo – Gia Lộc. Sau khi Dự án được bố trí vốn, Bộ Giao thông vận tải sẽ tập trung chỉ đạo Chủ đầu tư, nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa dự án vào khai thác, phát huy hiệu quả phần vốn đã thực hiện đầu tư, tăng cường an toàn giao thông, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhu cầu đi lại của nhân dân.
16. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri Cao Bằng tiếp tục đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành trung ương quan tâm, xem xét huy động nguồn lực đầu tư tuyến Cao tốc Trà Lĩnh (Cao Bằng) - Đồng Đăng (Lạng Sơn) để đưa tuyến kết nối giao thông đường bộ quốc tế từ các tỉnh Tây nam Trung Quốc qua cửa khẩu Trà Lĩnh đi ASEAN và quốc tế thông qua cảng Hải Phòng, đưa tuyến giao thông đường bộ này vào Hiệp định vận tải đường bộ quốc tế ký kết giữa Chính phủ 2 nước Việt Nam - Trung Quốc. Đây là dự án quan trọng để kết nối hai nền kinh tế, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại giữa hai quốc gia, đồng thời góp phần cụ thể hóa chủ trương hợp tác xây dựng khu hợp tác kinh tế biên giới (Bản ghi nhớ ký ngày 13/10/2013 tại Hà Nội giữa Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Thương mại Trung Quốc).
Trả lời: Tại công văn số 270/BGTVT-KHĐT ngày 09/01/2018
Tuyến cao tốc Đồng Đăng – Lạng Sơn đã có trong Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 1/3/2016, chiều dài 144km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư khoảng 47.000 tỷ đồng, tiến độ thực hiện đầu tư sau năm 2030.
Hiện nay, Bộ GTVT đang giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam rà soát, điều chỉnh Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó có nghiên cứu khả năng điều chỉnh tiến độ đầu tư tuyến cao tốc Đồng Đăng – Trà Lĩnh theo nhu cầu vận tải, khả năng huy động nguồn lực để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Việc huy động nguồn lực đầu tư sẽ được Bộ GTVT xem xét sau khi điều chỉnh quy hoạch trên được duyệt.
17. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri Cao Bằng đề nghị Chính phủ, Bộ GTVT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính quan tâm xem xét bổ sung nguồn vốn còn dư của các dự án để bố trí cho dự án Quốc lộ 34 (đoạn Khau Đồn - Nguyên Bình) và dự án đường nối Quốc lộ 4A - Quốc lộ 3 (tránh thành phố Cao Bằng).
Trả lời: Tại công văn số 629/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
1. Về Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 34 đoạn Khau Đồn - Nguyên Bình (Km0 - Km36) - Dự án:
Dự án được Bộ GTVT phê duyệt với tổng mức đầu tư (TMĐT) 582 tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP), khởi công năm 2010, dự kiến hoàn thành năm 2014. Bộ GTVT đã bố trí đủ vốn theo TMĐT được duyệt. Do Dự án được phê duyệt từ năm 2008, trong thời gian triển khai thực hiện có nhiều thay đổi về chế độ chính sách, giá cả vật tư, vật liệu nên TMĐT của Dự án tăng lên 687 tỷ đồng, do vậy số vốn đã được bố trí chỉ đủ kinh phí để hoàn thành đoạn từ Km0 - Km34. Đoạn Km34 - Km36 mới thi công xong phần nền đường và hệ thống thoát nước ngang. Để hoàn thành toàn bộ công trình, Dự án cần được bổ sung 105 tỷ đồng. Bộ GTVT đã tổng hợp trình Bộ KH & ĐT phương án điều hòa, điều chuyển kế hoạch vốn TPCP giai đoạn 2012 - 2015 để bố trí vốn cho Dự án. Tuy nhiên, đến nay không cân đối được vốn cho dự án. Mặt khác, nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 giao cho Bộ GTVT hết sức hạn chế nên không bố trí được cho Dự án. Vì vậy, Bộ GTVT sẽ xem xét tiếp tục triển khai Dự án khi được Quốc hội, Chính phủ bổ sung nguồn vốn.
2. Về Dự án đầu tư xây dựng đường nối Quốc lộ 4A với Quốc lộ 3:
Dự án được Bộ GTVT phê duyệt với TMĐT 177 tỷ đồng, khởi công năm 2009, dự kiến hoàn thành năm 2013. Bộ GTVT đã bố trí đủ vốn theo TMĐT được phê duyệt. Tuy nhiên, do có nhiều thay đổi về chế độ chính sách, giá cả vật tư, vật liệu làm tăng TMĐT của Dự án lên 382 tỷ đồng, nên không đủ kinh phí để hoàn thành Dự án. Trên cơ sở báo cáo của Bộ GTVT, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho điều chỉnh Dự án, Bộ GTVT đã tổng hợp trình Bộ KH & ĐT phương án điều hòa, điều chuyển kế hoạch vốn TPCP giai đoạn 2012 - 2015, trong đó có Dự án này. Thủ tướng Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hiện tại, Ủy ban Thường vụ đang xem xét, giải quyết. Sau khi được chấp thuận, sẽ tiếp tục triển khai thực Dự án.
18. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ, Bộ GTVT điều chỉnh quy hoạch Quốc lộ 3 (đoạn Bắc Kạn - Cao Bằng) theo phương án tuyến tránh các đèo dốc nguy hiểm thành đường cao tốc.
Trả lời: Tại công văn số 630/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
Theo Quy hoạch phát triển ngành GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh tại Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013, trong đó Quốc lộ 3, được quy hoạch là đường cấp III, 2 làn xe.
Về quy hoạch phát triển mạng lưới đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tuyến cao tốc hướng tâm nối Cao Bằng với Thủ đô Hà Nội chỉ đến thành phố Bắc Kạn. Như vậy, đoạn Bắc Kạn đến Cao Bằng sẽ đi theo Quốc lộ 3 hiện tại.
Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của cử tri tỉnh Cao Bằng về việc nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch Quốc lộ 3 (đoạn Bắc Kạn - Cao Bằng) theo phương án tuyến tránh các đèo dốc nguy hiểm thành đường cao tốc, trong quá trình triển khai Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, căn cứ nhu cầu vận tải trên tuyến Quốc lộ 3 và nguồn lực cho phép, để xem xét lựa chọn phương án tuyến và quy mô phù hợp đảm bảo tính kinh tế, kỹ thuật. Trước mắt, Bộ GTVT đang đầu tư đoạn tránh thị trấn Ngân Sơn và Nà Phặc với quy mô đường cấp III để góp phần cải thiện một số đèo dốc trên tuyến và đảm bảo an toàn giao thông, khởi công tháng 12/2016, hoàn thành 2019.
19. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ GTVT cho lập Đề án kết nối giao thông và tăng cường vận tải hàng hóa hai chiều theo trục đường bộ kết nối các tỉnh Tây Nam (Trung Quốc) - Bách Sắc (Trung Quốc) - Trà Lĩnh (Cao Bằng, Việt Nam) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - theo đường biển đi các nước ASEAN.
Trả lời: Tại công văn số 270/BGTVT-KHĐT ngày 09/01/2018
1. Về kiến nghị huy động nguồn lực đầu tư tuyến cao tốc Đồng Đăng (Lạng Sơn) đến cửa khẩu Trà Lĩnh (Cao Bằng):
Tuyến cao tốc Đồng Đăng – Lạng Sơn đã có trong Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 1/3/2016, chiều dài 144km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư khoảng 47.000 tỷ đồng, tiến độ thực hiện đầu tư sau năm 2030.
Hiện nay, Bộ GTVT đang giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam rà soát, điều chỉnh Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó có nghiên cứu khả năng điều chỉnh tiến độ đầu tư tuyến cao tốc Đồng Đăng – Trà Lĩnh theo nhu cầu vận tải, khả năng huy động nguồn lực để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Việc huy động nguồn lực đầu tư sẽ được Bộ GTVT xem xét sau khi điều chỉnh quy hoạch trên được duyệt.
2. Về kiến nghị lập Đề án kết nối giao thông Việt Nam – Trung Quốc theo trục đường bộ kết nối các tỉnh Tây Nam (Trung Quốc) - Bách Sắc (Trung Quốc) - Trà Lĩnh (Cao Bằng) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng: Bộ GTVT đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề án quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông kết nối Việt Nam - Trung Quốc, trong đó về quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông đường bộ phục vụ kết nối Việt Nam – Trung Quốc có tuyến cao tốc Trà Lĩnh (Cao Bằng) – Đồng Đăng (Lạng Sơn) – Hà Nội – Hải Phòng để kết nối với cảng Lạch Huyện đi các nước ASEAN. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang xem xét, chấp thuận.
20. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ cần sớm có giải pháp để triển khai thực hiện Giai đoạn 2 Dự án Nâng cấp Kênh Chợ Gạo, hoặc cấp kinh phí thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng để tạo quỹ đất sạch trong thời gian chờ nguồn vốn đầu tư nhằm đảm bảo an toàn và tạo điều kiện để người dân trong vùng dự án (hiện nay đang bị sạt lỡ nghiêm trọng, mất đất, nhà cửa xuống cấp nhưng không thể duy tu, sửa chữa) được hỗ trợ tái định cư, yên tâm sản xuất, ổn định cuộc sống.
Trả lời: Tại công văn số 723/BGTVT-ĐTCT ngày 22/01/2018
Dự án đầu tư xây dựng công trình Nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo đã được Bộ GTVT đã quyết định đầu tư với tổng mức đầu tư là 4.221 tỷ đồng. Tuy nhiên, do khó khăn trong bố trí vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, ngày 21/6/2013, Bộ trưởng Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án với tổng mức đầu tư là 2.263,7 tỷ đồng và phân kỳ đầu tư như sau:
Giai đoạn 1: Tổng mức đầu tư là 787 tỷ đồng. Thực hiện đầu tư nạo vét 17km luồng đoạn Rạch Lá và Kỳ Hôn; nạo vét mở rộng ½ luồng về phía bờ Bắc kênh Chợ Gạo (chiều dài 11,6km); xây dựng 6,25km kè thảm đá bờ Bắc kênh Chợ Gạo và 5,9km kè trồng cây tại Rạch Kỳ Hôn và Rạch Lá; xây dựng 6,2km đường nông thôn loại B tại bờ Bắc kênh Chợ Gạo; 0,35km tại Rạch Kỳ Hôn; GPMB (29,45ha) và TĐC tại Rạch Lá, rạch Kỳ Hôn và bờ Bắc kênh Chợ Gạo; xây dựng các bãi đổ đất nạo vét… bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Đến nay, đã hoàn thành đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả đầu tư.
Giai đoạn 2: Hiện nay, Bộ GTVT đang nghiên cứu đầu tư theo hình thức BOT; Tổng vốn đầu tư là 1.337 tỷ đồng; Mức thu phí 1.430 đồng/tấn/lượt tương đương 50 đồng/tấn/km; Đối tượng thu phí là tàu có tải trọng toàn phần > 300 tấn có hàng và không hàng, theo trọng tải được cơ quan được cơ quan đăng kiểm cấp và các phương tiện quy đổi; Thời gian thu phí hoàn vốn 18 năm 02 tháng. Tuy nhiên qua quá trình rà soát, đánh giá hình thức đầu tư theo Hợp đồng BOT thì việc đầu tư Dự án Nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo giai đoạn 2 theo hình thức BOT còn tồn tại, bất cập như sau:
- Ngày 21/10/2017, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), trong đó yêu cầu: “Đối với các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để đảm bảo quyền lựa chọn cho người dân, không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo, hiện hữu”. Dự án Kênh Chợ Gạo giai đoạn 2 đang nghiên cứu trên cơ sở cải tạo, nâng cấp kênh hiện có, không phải đầu tư mới, các phương tiện bắt buộc phải trả phí, không có sự lựa chọn.
- Quá trình tham vấn cộng đồng, có ý kiến của doanh nghiệp vận tải đề nghị tăng tải trọng thu phí lên 400T. Việc thu phí đối với các phương tiện có trọng tải >300T sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro về hoàn vốn đầu tư trong trường hợp các doanh nghiệp/cá nhân hạn chế sử dụng phương tiện trên 300T qua tuyến.
- Về thu phí đường thủy: Phương án thu phí đường thủy nội địa là chưa có tiền lệ, chưa được nghiên cứu đầy đủ, việc tổ chức thu phí thủ công sẽ gặp khó khăn về điều động phương tiện, ảnh hưởng đến năng lực thông qua của kênh; việc thu phí tự động (tương tự như thu phí tự động trên đường bộ) đòi hỏi phải đầu tư hạ tầng kỹ thuật số đồng bộ.
Như vậy, hiện nay Dự án đầu tư xây dựng công trình Nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo giai đoạn 2 đang nghiên cứu lại hình thức đầu tư phù hợp. Bộ GTVT sẽ thông tin tiếp khi quyết định được hình thức và nguồn vốn triển khai.
21. Cử tri tỉnh Bắc Ninh kiến nghị: Đề nghị xem xét việc dừng thi công dự án đường sắt Lim - Phả Lại: Dự án này có tiếp tục được thực hiện không, nếu tiếp tục thực hiện thì vào thời gian nào. Đề nghị xây dựng đường gom dân sinh trong quá trình triển khai dự án.
Trả lời: Tại công văn số 492/BGTVT-KHĐT ngày 16/01/2018
Dự án Tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư từ năm 2004 và được chia thành 04 Tiểu dự án vận hành độc lập; trong đó tiểu dự án Lim - Phả Lại đã cơ bản đền bù, giải phóng mặt bằng và thi công phần nền đường, các công trình trên tuyến (cầu, cống, hầm chui...). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Dự án, thực hiện Nghị Quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Dự án đã bị tạm dừng dãn tiến độ và chỉ thực hiện đến điểm dừng kỹ thuật trong phạm vi vốn đã được bố trí; vì vậy, đến nay dự án chưa hoàn thành như ý kiến của cử tri đã nêu.
Vừa qua, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã triển khai rà soát, đánh giá tổng thể về dự án. Theo kết quả rà soát của tư vấn cho thấy Dự án có hiệu quả về kinh tế; nếu tiếp tục dừng dãn, dự án sẽ không phát huy được hiệu quả nguồn vốn đã được đầu tư và tiếp tục có những thiệt hại nhất định. Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn lực đầu tư khó khăn như hiện nay, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chỉ tập trung cho một số dự án cấp bách để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến đường sắt Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh hiện có. Vì vậy, Bộ GTVT đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận giao Bộ GTVT nghiên cứu, kêu gọi để tiếp tục đầu tư Dự án theo hình thức xã hội hóa đối với các hạng mục còn lại để hoàn thành Dự án theo Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt.
Trường hợp có nhà đầu tư quan tâm hoặc bố trí được nguồn vốn ngân sách để triển khai dự án, Bộ GTVT sẽ phối hợp với địa phương để nghiên cứu việc xây dựng đường gom nhằm đảm bảo an toàn giao thông đường sắt.
22. Cử tri tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến đường cao tốc La Sơn - Túy Loan để góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương cũng như khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Trả lời: Tại công văn số 15/BGTVT-CQLXD ngày 02/01/2018
Dự án đường Hồ Chí Minh đoạn La Sơn - Túy Loan có chiều dài khoảng 77,50km đi qua hai tỉnh Thừa Thiên Huế (35km) và thành phố Đà Nẵng (42,50km). Được sự hỗ trợ của địa phương đến nay mặt bằng đã cơ bản được bàn giao cho nhà thầu thi công 66km (từ La Sơn - Hòa Liên), 11,50km còn lại (từ Hòa Liên - Túy Loan) đang được thành phố Đà Nẵng tích cực triển khai công tác giải phóng mặt bằng.
Theo tiến độ dự án được duyệt, thời gian hoàn thành dự án là cuối năm 2018, để kết nối với dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, nhằm sớm phát huy hiệu quả đầu tư, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và khu vực. Bộ Giao thông vận tải đã và đang chỉ đạo Ban QLDA, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công huy động tối đa năng lực và triển khai đồng bộ trên toàn tuyến nhằm đảm bảo hoàn thành dự án theo kế hoạch. Hiện tại, dự án đã thi công hoàn thành cơ bản phần nền đường, các công trình cầu, cống trên tuyến. Tuy có gặp một số khó khăn về thời tiết đặc thù của khu vực, địa hình phức tạp, nhưng Bộ Giao thông vận tải sẽ tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng của địa phương, quyết liệt chỉ đạo dự án hoàn thành theo tiến độ nêu trên.
23. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Cử tri thôn Cà Nộc, xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên phản ánh từ năm 2015 cầu qua suối thôn Cà Nộc được khảo sát, đo đạc nhiều lần và thông báo rộng rãi trong thôn về đầu tư xây dựng cầu dân sinh qua suối (thuộc Dự án LRAMP) của Bộ GTVT, dự kiến khởi công cuối năm 2016 nhưng đến nay chưa được thực hiện. Đề nghị Bộ GTVT nghiên cứu, xem xét trả lời việc có triển khai thực hiện dự án trên hay không để nhân dân được biết.
Trả lời: Tại công văn số 1266/BGTVT-KHĐT ngày 02/02/2018
Bộ GTVT đang thực hiện Dự án “Xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương” (LRAMP) với nội dung chính: Đầu tư xây dựng 2.272 cầu dân sinh trên địa bàn 50 tỉnh/thành phố với kinh phí 5.798 tỷ đồng, trong đó tỉnh Yên Bái được đầu tư xây dựng 49 cầu với tổng mức đầu tư 103 tỷ đồng. Trong quá trình triển khai Dự án trên địa bàn tỉnh Yên Bái, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã tiến hành rà soát lại các vị trí xây dựng cầu để đáp ứng tiêu chí của Dự án và chia 49 cầu thành 02 nhóm gồm: 19 cầu lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật có quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản để thi công trước (đến nay đã triển khai thi công toàn bộ 19 cầu tại hiện trường); 30 cầu còn lại phải lập Dự án đầu tư trong đó có cầu Cà Nộc 1 và Cầu Cà Nộc 2 trên địa bàn xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên (các cầu này hiện đang được khảo sát lập Dự án đầu tư để thi công trong năm 2018, dự kiến hoàn thành trong năm 2019).
24. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét, đầu tư kinh phí nhằm cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long vì hiện nay đa số đường giao thông của vùng nhỏ và hẹp. Đường cao tốc TP.HCM đi Cần Thơ chậm triển khai đoạn từ Trung Lương đi Cần Thơ, đề nghị sớm triển khai đoạn này để tạo điều kiện phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trả lời: Tại công văn số 641/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018
Về kiến nghị cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long và sớm triển khai thi công tuyến cao tốc đoạn Trung Lương – Cần Thơ:
a) Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, kinh phí đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm tỷ trọng đầu tư là khá lớn trong tổng nguồn vốn đã bố trí cho ngành giao thông vận tải, tuy nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu, một số tuyến đường còn nhỏ hẹp chưa phù hợp với quy hoạch được duyệt.
Trong kế hoạch đầu tư giai đoạn 2016-2020, Bộ GTVT đã xây dựng kế hoạch đầu tư công để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội với tổng kinh phí 952.000 tỷ đồng; riêng nhu cầu đầu tư của vùng Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 206.772 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn xã hội hóa là 102.243 tỷ đồng, nguồn vốn NSNN là 104.529 tỷ đồng. Tuy nhiên, hiện nay nguồn vốn giao cho Bộ GTVT mới đáp ứng được khoảng 31% tổng nhu cầu vốn ngân sách Nhà nước (bao gồm vốn ODA, vốn NSNN và vốn TPCP) để đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, do vậy một số tuyến quốc lộ chưa được đầu tư, nâng cấp, vẫn còn tình trạng mặt đường nhỏ, hẹp như kiến nghị của cử tri. Bộ GTVT sẽ tiếp tục báo cáo Chính phủ, Quốc hội bổ sung nguồn vốn cho Bộ GTVT để đầu tư, nâng cấp hệ thống quốc lộ của cả nước nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
b) Đối với kiến nghị đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến cao tốc Trung Lương - Cần Thơ:
Tuyến cao tốc Trung Lương – Cần Thơ có chiều khoảng 82 km bao gồm 7 km cầu Mỹ Thuận 2 và đường đầu cầu. Do kinh phí đầu tư rất lớn, trong điều kiện nguồn lực hạn chế, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ GTVT nghiên cứu, rà soát phương án đầu tư tuyến đường theo hình thức đối tác công tư có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã phê duyệt đầu tư 2 dự án đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận (51 km) với tổng mức đầu tư 9.668 tỷ đồng và cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ (24 km) với tổng mức đầu tư 5.425 tỷ đồng theo hình thức PPP hợp đồng BOT có hỗ trợ của Nhà nước bằng quyền thu giá sử dụng dịch vụ đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương. Trong đó, đoạn Trung Lương - Mỹ Thuận dự kiến hoàn thành trong năm 2020, vừa qua dự án chậm trễ do một số vướng mắc liên quan đến điều chỉnh quy mô dự án và tính toán mức lãi suất cho vay của phần vốn vay thương mại theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, hiện Bộ GTVT đang báo cáo Chính phủ và các bộ, ngành liên quan để tháo gỡ nhằm hoàn tất việc thu xếp khoản vay thương mại cho dự án và đẩy nhanh công tác thực hiện đầu tư; đoạn Mỹ Thuận – Cần Thơ đang thực hiện đấu thầu quốc tế để lựa chọn Nhà đầu tư theo quy định, dự kiến trong năm 2018 sẽ lựa chọn xong nhà đầu tư để triển khai đầu tư xây dựng, hoàn thành đưa vào khai thác năm 2021.
Riêng đối với cầu Mỹ Thuận 2, tại Nghị quyết số 52/2017/QH14, Quốc hội đã thông qua chủ trương sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2017-2020 trong Đề án đầu tư xây dựng một số đoạn tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông trong đó đã bao gồm dự án đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận 2, Bộ GTVT đang tổ chức triển khai thực hiện các thủ tục đầu tư, xây dựng.
25. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ, Bộ GTVT sớm triển khai Dự án đường sắt Sài Gòn - Cần Thơ, tạo điều kiện thuận lợi trong giao thương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Trả lời: Tại công văn số 491/BGTVT-KHĐT ngày 16/01/2018
Căn cứ Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành trung ương Đảng Khoá XI, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 theo đó dự kiến sau năm 2020 sẽ nghiên cứu, đầu tư xây dựng tuyến đường sắt TP. Hồ Chí Minh - Mỹ Tho - Cần Thơ - Cà Mau dài khoảng 320km, đường đôi, khổ 1.435mm để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như kiến nghị của cử tri. Đồng thời, Bộ GTVT cũng đã phê duyệt quy hoạch chi tiết tuyến đường sắt TP. Hồ Chí Minh - Cần Thơ tại Quyết định số 2563/QĐ-BGTVT ngày 27/8/2013 nhằm ổn định quy hoạch sử dụng đất, quản lý quỹ đất dành cho phát triển giao thông đường sắt và làm cơ sở xúc tiến kêu gọi đầu tư dự án theo định hướng Quy hoạch.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước khó khăn như hiện nay, Bộ GTVT chưa triển khai nghiên cứu lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án nêu trên. Trường hợp có nhà đầu tư quan tâm sớm triển khai, Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND các tỉnh và các cơ quan, đơn vị có liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
26. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Sớm đầu tư, nâng cấp Quốc lộ 53, 54 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh để đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 644/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018
- Đối với tuyến Quốc lộ 53: Quốc lộ 53 qua địa phận tỉnh Trà Vinh có chiều dài khoảng 125km (từ Km43 - Km168). Trong những năm vừa qua, Bộ GTVT đã tập trung nguồn lực để đầu tư hoàn thành một số đoạn trên tuyến theo quy mô đường cấp III, cấp IV đồng bằng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vận tải. Tuy nhiên, hiện nay còn 02 đoạn gồm:
+ Đoạn Km11+Km56 thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 53 đoạn Long Hồ - Ba Si được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư với Tổng mức đầu tư 1.222 tỷ đồng, thực hiện theo hình thức BOT tại Quyết định số 1236/QĐ-BGTVT ngày 09/4/2015 và triển khai công tác chuẩn bị thi công từ tháng 3 năm 2016. Trong quá trình triển khai, tiến độ Dự án chậm trễ do các nguyên nhân khách quan và chủ quan như: vướng mắc trong công tác GPMB, nhà đầu tư vi phạm quy định của hợp đồng BOT trong việc ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng để huy động nguồn vốn thực hiện Dự án. Bộ GTVT đã triển khai các thủ tục xử lý vi phạm của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án theo quy định và cho phép nhà đầu tư dự án được cơ cấu lại danh sách cổ đông, chuyển nhượng và thay thế, bổ sung thêm cổ đông có năng lực thực hiện Dự án theo quy định. Tuy nhiên, hiện nay do chủ trương chung của Quốc hội và Chính phủ không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu, các ngân hàng cung cấp tín dụng thắt chặt hạn mức cho vay, do vậy nhà đầu tư chưa thể ký được hợp đồng tín dụng với ngân hàng để làm cơ sở triển khai Dự án. Căn cứ thực tế triển khai và hợp đồng đã ký, Bộ GTVT đã thống nhất thực hiện quy trình chấm dứt hợp đồng Dự án đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án và giao cơ quan thuộc Bộ làm việc với UBND các tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh để thỏa thuận việc chấm dứt hợp đồng Dự án theo quy định. Bộ GTVT sẽ phối hợp với các địa phương để tìm kiếm, huy động nguồn vốn tiếp tục triển khai Dự án.
+ Đoạn Km67 – Km114: Dự án cải tạo nâng cấp QL53 đoạn Km67-Km114 được đầu tư theo quy mô đường cấp III đồng bằng với chiều dài 43,14km, bằng nguồn vốn TPCP, tổng mức đầu tư là 1.014 tỷ đồng. Đã khởi công xây dựng từ năm 2010, tuy nhiên dự án nằm trong danh mục dừng giãn theo Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ. Để tiếp tục triển khai hoàn thành đầu tư khối lượng còn lại của dự án và xây dựng tuyến tránh QL53 qua thành phố Trà Vinh, Bộ GTVT đã hoàn thiện các thủ tục theo quy định của Luật Đầu tư công để đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 với tổng mức đầu tư 1.465 tỷ đồng. Tại Nghị quyết số 52/2017/QH14, Quốc hội đã giao Chính phủ sử dụng 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng kế hoạch trung hạn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020 cho các dự án đường sắt quan trọng và đường bộ quan trọng, cấp bách. Bộ GTVT đã có Văn bản số 189/BGTVT-KHĐT ngày 08/01/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về xây dựng tiêu chí lựa chọn và dự kiến danh mục dự án cấp bách đề nghị bố trí vốn từ nguồn dự phòng trung hạn nêu trên, trong đó đã kiến nghị phân bổ 800 tỷ đồng để đầu tư hoàn thiện QL53 đoạn Km67-Km114, đoạn tránh thành phố Trà Vinh sẽ đầu tư khi cân đối được nguồn vốn.
- Đối với tuyến Quốc lộ 54: Theo quy hoạch được duyệt, Quốc lộ 54 qua địa phận tỉnh Trà Vinh dài 68km (từ Km85 đến Km153), đã được đầu tư nâng cấp cơ bản đạt tiêu chuẩn đường cấp IV đồng bằng, hiện vẫn đáp ứng tốt nhu cầu vận tải trên tuyến. Trong điều kiện nguồn lực hiện nay rất hạn hẹp, Bộ GTVT chưa thể cân đối được nguồn vốn để đầu tư, nâng cấp các tuyến quốc lộ theo quy hoạch được duyệt. Trước mắt, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông trên tuyến.
27. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Đề nghị Bộ GTVT xem xét đầu tư tuyến tránh qua địa bàn thành phố Cam Ranh và thị trấn Cam Đức, huyện Cam Lâm để giảm tai nạn giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 417/BGTVT-KHĐT ngày 15/01/2018
Trên cơ sở Đề án mở rộng Quốc lộ 1 được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ GTVT đã triển khai các dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn từ Hà Nội đến Cần Thơ với quy mô 4 làn xe và đã cơ bản hoàn thành năm 2015, trong đó đoạn qua thành phố Cam Ranh được giữ nguyên do đã đảm bảo quy mô 4 làn xe, đoạn qua thị trấn Cam Đức, huyện Cam Lâm được mở rộng với quy mô 4 làn xe. Hiện nay đang khai thác bình thường.
Theo Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 01/3/2016, Chính phủ đã trình và được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 tại Nghị quyết 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017, trong đó có đoạn Nha Trang - Vĩnh Hảo qua tỉnh Khánh Hòa. Hiện nay, Bộ GTVT đang tập trung chỉ đạo triển khai các đoạn tuyến đã được Quốc hội thông qua.
Như vậy, hệ thống đường bộ Bắc - Nam qua khu vực tỉnh Khánh Hòa với Quốc lộ 1 và cao tốc song hành sẽ đáp ứng nhu cầu vận tải.
Để đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông các đoạn qua thành phố Cam Ranh và đoạn qua thị trấn Cam Đức, huyện Cam Lâm, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác duy tu, sửa chữa bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ.
28. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm bố trí vốn để đầu tư xây dựng đường nối hai đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ. Hiện nay cầu Hưng Hà đã thi công xong khoảng 80% khối lượng. Dự kiến Quý I năm 2018 sẽ khánh thành, hiện tại tuyến đường nối hai đường cao tốc qua địa phận Hưng Yên đã giải phóng xong mặt bằng, cơ bản xong phần nền đường, chưa có kinh phí thi công đường. Sẽ là sự lãng phí rất lớn nếu cầu xây dựng xong mà đường dẫn hai đầu không có.
Trả lời: Tại công văn số 287/BGTVT-KHĐT ngày 10/01/2018
Nhằm nâng cao khả năng khai thác của 2 tuyến cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, giảm áp lực giao thông quá cảnh qua Thủ đô Hà Nội và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội khu vực đồng bằng sông Hồng, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ GTVT quyết định đầu tư và triển khai dự án xây dựng tuyến đường nối cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Hà Nội – Hải Phòng, đồng thời giao UBND tỉnh Hà Nam và UBND tỉnh Hưng Yên ứng trước vốn thực hiện dự án (Thông báo số 168/TB-VPCP ngày 25/5/2009 của Văn phòng Chính phủ).
Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt và đang triển khai thi công giai đoạn 1 tuyến đường nối cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Hà Nội – Hải Phòng, quy mô 2 làn xe, tổng mức đầu tư 2717,3 tỷ đồng từ nguồn vốn ứng trước của tỉnh Hưng Yên và Hà Nam. Do nguồn vốn ứng bố trí cho dự án khó khăn nên hiện nay dự án đang thi công dở dang, chưa đưa vào khai thác.
Quốc hội đã có Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 về chủ trương đầu tư dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, trong đó đã cho phép sử dụng 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng của kế hoạch trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 cho các dự án đường sắt quan trọng và các dự án đường bộ quan trọng, cấp bách. Thực hiện Nghị quyết số 52/2017/QH14, Bộ GTVT đang rà soát và dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ danh mục các dự án đường bộ, đường sắt sử dụng vốn dự phòng của kế hoạch trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020, trong đó xem xét bố trí một phần vốn để tiếp tục đầu tư hoàn thành giai đoạn 1 của dự án án xây dựng tuyến đường nối cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Hà Nội – Hải Phòng.
Bộ GTVT thống nhất với đề nghị của UBND tỉnh Hưng Yên và đề nghị tỉnh Hưng Yên tiếp tục phối hợp với Bộ GTVT kiến nghị Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ xem xét, bổ sung nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020 để thực hiện thi công hoàn thành dự án, phát huy hiệu quả phần vốn đã thực hiện đầu tư, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Sau khi được bố trí vốn, Bộ GTVT sẽ tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa dự án vào khai thác.
29. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Từ Quốc hội khóa XIII, Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng đã nhiều lần chuyển các kiến nghị của cử tri địa phương đến Bộ GTVT về tình hình xuống cấp của Quốc lộ 27 (đoạn từ cầu K’Rông Nô (Đăk Lăk) đến Liên Khương (Lâm Đồng). Đã hơn 08 năm qua, Bộ GTVT có nhiều văn bản trả lời, quan tâm giải quyết kiến nghị cử tri nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức duy tu, bảo dưỡng để tạm thời lưu thông. Tuy nhiên, tình hình hiện nay tuyến đường này đã xuống cấp trầm trọng, nhiều đoạn hư hỏng nặng, nhất là đang mùa mưa bão, việc đi lại vô cùng khó khăn, nhưng Quốc lộ 27 lại không nằm trong các dự án được bố trí vốn trung hạn giai đoạn 2017 - 2020, vì vậy cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ và Bộ GTVT quan tâm bố trí nguồn vốn nâng cấp, mở rộng tuyến quốc lộ quan trọng này, nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu vận chuyển, lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây Nguyên.
Trả lời: Tại công văn 416/BGTVT-KHĐT ngày 15/01/2018
Xác định vai trò của quốc lộ 27, trong thời gian qua, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét bố trí vốn để nâng cấp, cải tạo một số đoạn tuyến cấp bách của Quốc lộ 27 đoạn qua tỉnh Lâm Đồng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, do nguồn vốn được giao rất hạn chế nên đến nay Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn cho đoạn tuyến này. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông.
30. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan sớm khởi công Dự án đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn đoạn từ Km1+800 - Km45+100, sử dụng vốn vay ADB, dự án do VEC làm chủ đầu tư để đảm bảo khai thác đồng bộ, phát huy hiệu quả đầu tư toàn tuyến cao tốc từ Hà Nội - Lạng Sơn; hoặc giao đoạn tuyến trên cho Nhà đầu tư BOT Bắc Giang - Lạng Sơn tiếp tục triển khai để nối tiếp với đoạn từ Km45+100 đến Bắc Giang cũng do Nhà đầu tư BOT này đang thực hiện.
Trả lời: Tại công văn số 627/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
Về đề nghị sớm khởi công dự án đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn đoạn từ Km1+800 - Km45+100: Để sớm triển khai dự án, Bộ GTVT đã có văn bản số 13568/BGTVT-ĐTCT ngày 1/12/2017 báo cáo Thủ tướng Chính phủ kiến nghị cho phép bổ sung đoạn cao tốc cửa khẩu Hữu Nghị - Chi Lăng vào dự án BOT Bắc Giang – thành phố Lạng Sơn. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang giao các bộ, ngành liên quan có ý kiến về đề nghị của Bộ GTVT để xem xét, giải quyết.
31. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ GTVT và các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, sớm triển khai nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng với tốc độ tầu chạy lên 80km/h đối với tàu khách và 60km/h đối với tàu hàng theo Quy hoạch tại Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Trả lời: Tại công văn số 527/BGTVT-KHĐT ngày 16/01/2018
Định hướng Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ lộ trình từ nay đến năm 2020 là tập trung cải tại, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có (bao gồm cả tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng); trong đó ưu tiên tập trung cải tạo, nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh để đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng trên hành lang kinh tế trọng điểm Bắc - Nam, phát triển hài hoà các phương thức vận tải.
Vì vậy, trong bối cảnh nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước khó khăn như hiện nay, Bộ GTVT đang tập trung đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định đầu tư một số dự án quan trọng, cấp bách trên tuyến đường sắt Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh để đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, từng bước nâng cao năng lực thông qua theo định hướng Chiến lược, Quy hoạch phát triển đường sắt.
Bộ GTVT ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Lạng Sơn và mong cử tri chia sẻ với những khó khăn của ngành GTVT.
32. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ tiếp tục triển khai thực hiện dự án xây dựng và phát triển hệ thống cảng biển tại thành phố Cần Thơ theo quy hoạch cảng biển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mở thêm các đường bay nội địa và quốc tế đến cảng hàng không quốc tế Cần Thơ. Đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án giao thông trên địa bàn thành phố Cần Thơ do Bộ GTVT quản lý (trong đó, có tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi) để sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Trả lời: Tại công văn số 639/BGTVT-VP ngày 19/01/2018
1. Về việc phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ tiếp tục triển khai thực hiện dự án xây dựng và phát triển hệ thống cảng biển tại thành phố Cần Thơ theo quy hoạch cảng biển vùng đồng bằng sông Cửu Long
- Cần Thơ là thành phố lớn thứ 4 của cả nước; là trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của của vùng đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí quan trọng trong giao thông kết nối đường bộ, đường biển và đường thủy nội địa giữa vùng Tây Nam Bộ với Đông Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.
- Xác định được tầm quan trọng của thành phố Cần Thơ, triển khai Quyết định số 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Bộ GTVT đã rà soát và phê duyệt Quy hoạch chi tiết Nhóm cảng biển đồng bằng sông Cửu Long (Nhóm 6) giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 3383/QĐ-BGTVT ngày 28/10/2016, trong đó cảng biển Cần Thơ được quy hoạch là cảng tổng hợp quốc gia đầu mối khu vực (loại I), gồm các khu bến chính là Cái Cui, Hoàng Diệu - Bình Thủy, Trà Nóc - Ô Môn - Thốt Nốt.
Nhu cầu hàng hóa thông qua dự kiến vào năm 2020 khoảng 8,07 đến 8,95 triệu tấn/năm; năm 2030 khoảng 12,55 đến 13,8 triệu tấn/năm. Trong đó, riêng hàng tổng hợp, công ten nơ dự kiến vào năm 2020 khoảng 4,62 đến 5,35 triệu tấn/năm; năm 2030 khoảng 8,15 đến 9,20 triệu tấn/năm.
b) Hiện trạng khai thác các bến cảng thuộc cảng biển Cần Thơ
- Khu bến Hoàng Diệu gồm 2 bến cho tàu trọng tải đến 15.000 tấn, tổng chiều dài 302 m; công suất thiết kế 2,2 - 3,5 triệu tấn/năm. Sản lượng hàng hóa thông qua: năm 2016 đạt khoảng 1,4 triệu tấn, đạt 63% công suất thiết kế; năm 2017 đạt khoảng 1,12 triệu tấn, đạt 51% công suất thiết kế.
- Khu bến Cái Cui gồm 02 bến cho tàu trọng tải đến 20.000 tấn, tổng chiều dài 365 m, công suất thiết kế khoảng 1,86 - 2,7 triệu tấn/năm. Sản lượng hàng hóa thông qua: năm 2016 khoảng 0,87 triệu tấn, đạt khoảng 47% công suất thiết kế; năm 2017 đạt khoảng 0,76 triệu tấn, đạt gần 41% công suất thiết kế.
- Khu bến Trà Nóc - Ô Môn - Thốt Nốt gồm 01 bến dài 76,2 m và 01 bến dài 75 m cho tàu trọng tải đến 5.000 tấn và 01 cầu cảng dài 180 m cho tàu trọng tải 10.000 tấn; công suất thiết kế khoảng 2,3 - 3,1 triệu tấn/năm. Sản lượng hang hóa thông qua: năm 2016 khoảng 1,3 triệu tấn, đạt 56% công suất thiết kế; năm 2017 khoảng 1,6 triệu tấn, đạt khoảng 70% công suất thiết kế.
Như vậy, cảng biển Cần Thơ đã được Chính phủ, Bộ GTVT phê duyệt quy hoạch là cảng biển chính, quan trọng (loại I) của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có đầy đủ cơ sở để triển khai kêu gọi thực hiện đầu tư theo quy định. Tuy nhiên, theo thực tiễn hoạt động, các bến cảng thuộc cảng biển Cần Thơ hiện chưa khai thác hết công suất thiết kế. Do đó, trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ chỉ đạo các doanh nghiệp khai thác cảng triển khai các biện pháp thu hút nguồn hàng, cải thiện năng lực quản trị doanh nghiệp, cải cách thủ tục hành chính để thu hút, nâng cao hiệu quả khai thác bến cảng, luồng hàng hải làm cơ sở tiếp tục kêu gọi đầu tư kết cấu hạ tầng cảng biển khu vực.
2. Về kiến nghị mở thêm các đường bay nội địa và quốc tế đến Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ
Trong thời gian qua, ngành hàng không đã có chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết về pháp lý, chính sách cũng như cơ sở hạ tầng cảng hàng không, đường không lưu thuận lợi cho hoạt động khai thác của các hãng hàng không Việt Nam cũng như quốc tế đi/đến Cần Thơ. Bên cạnh đó, các năm 2014, 2015, Bộ GTVT đã chỉ đạo Cục Hàng không Việt Nam phối hợp với Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ tổ chức Hội nghị xúc tiến các tuyến hàng không đi/đến thành phố Cần Thơ nhằm giới thiệu, quảng bá cảng hàng không tới các hãng hàng không quốc tế, cơ quan đại diện ngoại giao các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực cũng như thế giới.
Ngày 28/12/2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án định hướng phát triển đường bay trực tiếp giữa Việt Nam và các quốc gia, địa bàn trọng điểm nhằm thúc đẩy phát triển, tăng cường giao lưu, hội nhập quốc tế tại Quyết định số 2119/QĐ/TTg, trong đó định hướng các hãng hàng không Việt Nam nghiên cứu mở các đường bay mới từ thành phố Cần Thơ đi các nước Hàn Quốc, Thái Lan…
Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Cục Hàng không Việt Nam tiếp tục triển khai hoạt động giới thiệu, quảng bá Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ; cũng như yêu cầu các hãng hàng không tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình thị trường hàng không đi/đến Cần Thơ để nghiên cứu mở thêm các đường bay nội địa, đường bay quốc tế đi/đến Cần Thơ nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.
3. Về kiến nghị đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án giao thông trên địa bàn thành phố Cần Thơ do Bộ GTVT quản lý (trong đó, có tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi) để sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng
Dự án xây dựng tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi có tổng chiều dài 51 km (địa phận thành phố Cần Thơ dài 24,17 km và tỉnh Kiên Giang dài 27,03 km) bắt đầu tại điểm cuối dự án cầu Vàm Cống (Km2+103 lý trình dự án) thuộc dự án Kết nối khu vực trung tâm đồng bằng Mê Kông và kết thúc tại Km53+538 kết nối với tuyến tránh Rạch Giá. Dự án có quy mô đầu tư đường cấp III đồng bằng,Vtk = 80 km/h (yếu tố hình học tuyến theo tiêu chuẩn đường cao tốc loại A,Vtk = 100 km/h để dự phòng cho việc đầu tư theo quy mô đường cao tốc trong giai đoạn sau); mặt cắt ngang Bm/Bn = 11/12 m. Kết cấu mặt đường láng nhựa đảm bảo Eyc≥120 MPa. Các cầu trên tuyến bằng BTCT nhịp giản đơn, bề rộng cầu Bc=12 m Thời gian thực hiện từ tháng 01/2016 và dự kiến hoàn thành cuối năm 2018.
Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, dự án đã được điều chỉnh lên quy mô 4 làn xe (Quyết định số 2388/QĐ-BGTVT ngày 14/8/2017 của Bộ GTVT) với Bm/Bn = 15,5/17 m, bề rộng cầu Bc=17,5 m, kết cấu mặt đường láng nhựa đảm bảo Eyc≥140 Mpa. Các thủ tục pháp lý liên quan đến việc điều chỉnh cơ bản đã hoàn thành. Đồng thời, Bộ GTVT đã chỉ đạo các đơn vị liên quan phải tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công ngoài hiện trường, đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ yêu cầu của dự án.
Trong quá trình triển khai dự án, đã phát sinh một số khó khăn khách quan làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, cụ thể: công tác giải phóng mặt bằng vẫn còn chậm (thành phố Cần Thơ bàn giao được 97% và tỉnh Kiên Giang bàn giao được 96%), đặc biệt tại một số vị trí cần thời gian để xử lý nền đất yếu; thời gian thực hiện các thủ tục điều chỉnh kế hoạch phân bổ vốn do điều chỉnh dự án cũng ảnh hưởng đến nguồn vốn bố trí cho công tác giải phóng mặt bằng và công tác thi công của các Nhà thầu; tình trạng khan hiếm nguồn vật liệu cát trong khu vực đồng bằng sông Cửu long.
Bộ GTVT đang tiếp tục chỉ đạo các đơn vị liên quan có các giải pháp khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành dự án theo tiến độ yêu cầu. Đồng thời, đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ tiếp tục giúp đỡ giải quyết các khó khăn (giải quyết dứt điểm các vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, xem xét hỗ trợ nguồn cung cấp vật liệu cát) để dự án sớm hoàn thành.
33. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Bố trí vốn đầu tư đường bộ cao tốc đoạn Mỹ Thuận – Cần Thơ trước năm 2020, nâng cấp mở rộng Quốc lộ 91 đoạn Km0-Km7, nâng cấp và sửa chữa tuyến đường từ Ngã Năm cầu Cần Thơ đến cảng Cái Cui giai đoạn II thuộc tuyến Nam Sông Hậu.
Trả lời: Tại công văn số 554/BGTVT-ĐTCT ngày 16/01/2018
1. Đối với dự án đường bộ cao tốc đoạn Mỹ Thuận – Cần Thơ:
- Dự án Mỹ Thuận – Cần Thơ có chiều dài khoảng 24km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư khoảng 5.400 tỷ đồng.
- Đối với nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Hiện nay nguồn vốn ngân sách Nhà nước rất hạn hẹp, Chính phủ và Bộ GTVT không thể bố trí, cân đối trong giai đoạn 2016-2020 để đầu tư dự án. Ngày 22/11/2017 vừa qua, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIV đã thông qua Nghị quyết số 52/2017/QH14 về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (Nghị quyết số 52/2017/QH14), theo đó vốn ngân sách Nhà nước chỉ đủ để đầu tư một số đoạn đường cao tốc đầu tư công sử dụng toàn bộ vốn ngân sách nhà nước (trong đó có dự án cầu Mỹ Thuận 2) và làm phần vốn góp Nhà nước tham gia thực hiện các dự án đầu tư công theo hình thức đối tác công tư.
- Hiện nay, đoạn cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận đang triển khai đầu tư xây dựng theo hình thức BOT, dự kiến hoàn thành trong năm 2020; dự án cầu Mỹ Thuận 2 đã được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, bố trí nguồn vốn tại Nghị quyết số 52/2017/QH14. Trước nhu cầu và sự cần thiết đầu tư đoạn cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ nhằm kết nối thuận lợi từ thành phố Hồ Chí Minh đến Cần Thơ, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT đang tích cực triển khai công tác chuẩn bị đầu tư dự án theo hình thức đối tác công tư (đã phê duyệt dự án, đang thực hiện các thủ tục lựa chọn nhà đầu tư) để sớm triển khai. Để đảm bảo tính khả thi của Dự án, Chính phủ đã đồng ý phương án hỗ trợ bằng quyền thu phí dự án đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Trung Lương. Hiện tại, Bộ GTVT đã phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi và đang chuẩn bị công tác sơ tuyển để đấu thầu quốc tế lựa chọn nhà đầu tư theo quy định.
Theo kế hoạch, Dự án đường cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ sẽ triển khai đấu thầu quốc tế lựa chọn Nhà đầu tư, dự kiến trong năm 2018 sẽ lựa chọn xong nhà đầu tư để triển khai đầu tư xây dựng, đưa vào khai thác vào năm 2021; đảm bảo kết nối đồng bộ các dự án từ thành phố Hồ Chí Minh đến Cần Thơ.
2. Đối với Dự án nâng cấp mở rộng Quốc lộ 91 đoạn Km0-Km7:
Quốc lộ 91 đoạn Km0-Km7 đã được bàn giao về cho thành phố Cần Thơ thành đường địa phương từ năm 2008. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 144/TB-VPCP ngày 01/4/2013, Bộ GTVT đã tiếp nhận lại dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 91 đoạn từ Km0 – Km7 do UBND thành phố Cần Thơ đang triển khai dở dang và đã thực hiện các thủ tục thẩm định nguồn vốn theo quy định của Luật Đầu tư công, dự kiến tổng mức đầu tư 2.295 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn rất hạn hẹp, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ nguồn vốn phân bổ cho Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020 không đủ cân đối, bố trí cho Dự án này (tại văn bản số 5628/BGTVT-KHĐT ngày 26/5/2017) và đã được Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ có ý kiến đồng ý theo đề xuất của Bộ GTVT tại văn bản số 5939/VPCP-CN ngày 07/6/2017 của Văn phòng Chính phủ, cụ thể: “Bộ GTVT sẽ phối hợp với thành phố Cần Thơ tiếp tục tìm kiếm, huy động nguồn vốn đầu tư Dự án. Trường hợp UBND thành phố Cần Thơ có thể huy động được vốn, đề nghị UBND thành phố Cần Thơ tiếp nhận lại dự án để triển khai đầu tư theo đúng quy định”.
3. Đối với Dự án nâng cấp và sửa chữa tuyến đường từ Ngã Năm cầu Cần Thơ đến cảng Cái Cui giai đoạn II thuộc tuyến Nam Sông Hậu:
Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 250 tỷ đồng. Đây là dự án được Thành ủy, HĐND, UBND, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ và Bộ GTVT thống nhất báo cáo và đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phương án triển khai đầu tư dự án theo hình thức BOT (Văn bản số 690/TTg-KTN ngày 18/5/2015). Tuy nhiên, Bộ Tài chính không thống nhất về phương án trạm thu phí cho dự án nên Bộ GTVT đã dừng nghiên cứu đầu tư theo hình thức BOT. Trong điều kiện nguồn lực khó khăn, không thể bố trí được trong kế hoạch nguồn vốn trung hạn 2016-2020, trên cơ sở thống nhất của địa phương tại cuộc họp ngày 18/5/2017, trước mắt Bộ GTVT chưa đầu tư nâng cấp mở rộng đoạn tuyến này (thông báo số 174/TB-BGTVT ngày 25/5/2017), giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam cân đối, bố trí nguồn vốn để duy tu, bảo dưỡng đảm bảo giao thông êm thuận, an toàn. Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ xem xét đầu tư khi bố trí được nguồn vốn phù hợp.
34. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ GTVT cần xem xét mở rộng tuyến QL1 đoạn từ Ngã tư Dầu Giây huyện Thống Nhất đến giáp ranh thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, vì tuyến đường này là đầu mối giao thông quan trọng của các tỉnh đi vào thành phố Biên Hòa và thành phố Hồ Chí Minh, nên thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông, ảnh hưởng đến trật tự giao thông trên địa bàn.
Trả lời: Tại công văn số 613/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013 phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó quy định một số đoạn có xây dựng đường cao tốc song hành, chỉ tăng cường nền, mặt đường và thay thế cầu yếu.
Tại Quyết định 1597/QĐ-TTg ngày 26/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế quản lý và thực hiện Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết thí điểm theo hình thức đối tác công – tư, Chính phủ đã chỉ đạo không đầu tư mở rộng đoạn QL1 song song với tuyến cao tốc để đảm bảo doanh thu và tính khả thi của Dự án Cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết. Vì vậy, trong Dự án mở rộng QL1 đoạn qua địa bàn tỉnh Đồng Nai dài khoảng 74km chỉ tăng cường, thảm bê tông nhựa giữ nguyên bề rộng nền, mặt đường hiện tại, tiêu chuẩn cấp III đồng bằng; những đoạn tuyến cải tạo cục bộ, mặt cắt ngang theo quy mô đoạn tuyến tương ứng và hoàn chỉnh hệ thống an toàn giao thông, hiện Dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng.
Thực hiện Đề án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017. Bộ GTVT đang tích cực chuẩn bị các thủ tục đầu tư để triển khai xây dựng các đoạn đường cao tốc trong đó có đoạn Dầu Giây – Phan
Thiết song song với QL1A đoạn qua tỉnh Đồng Nai, dự kiến hoàn thành vào năm 2021. Khi công trình hoàn thành lưu lượng phương tiện sẽ được điều tiết sang đường cao tốc và giảm đáng kể phương tiện giao thông trên QL1, cơ bản khắc phục được tình trạng ùn tắc giao thông đoạn từ ngã tư Dầu Giây đến giáp ranh thành phố Biên Hòa nói riêng và qua tỉnh Đồng Nai. Trước mắt, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan của tỉnh Đồng Nai tăng cường các biện pháp an toàn giao thông trên QL1 đoạn qua tỉnh Đồng Nai nhằm giảm ùn tắc và đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn.
35. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ GTVT tổ chức công bố, công khai cho cử tri được biết lộ trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Dầu Giây - Liên Khương nối liền 02 tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng nhằm giúp người dân nắm bắt được thông tin.
Trả lời: Tại công văn số 419/BGTVT-ĐTCT ngày 15/01/2018
Trong điều kiện nguồn lực vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đang rất khó khăn, toàn bộ tuyến cao tốc Dầu Giây - Liên Khương có tổng mức đầu tư lớn (nếu đầu tư đủ tiêu chuẩn đường cao tốc 04 làn xe với tổng chiều dài 200km cần khoảng 65.000 tỷ đồng) cần phải có sự hỗ trợ từ nhiều nguồn vốn (NSNN, ODA,..), Bộ GTVT đã phối hợp với UBND các tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai để lựa chọn, ưu tiên tập trung đầu tư vào các đoạn tuyến thực sự cần thiết, cấp bách, đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân và đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, Bộ đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án và đã được Chính phủ đồng ý phân đoạn và phân kỳ Dự án để đảm bảo tính khả thi về tài chính. Để giúp người dân nắm bắt thông tin, Bộ GTVT xin được cung cấp lộ trình thực hiện đối với các dự án thành phần hiện đang tiếp tục chuẩn bị đầu tư như sau:
- Dự án thành phần I (Dầu Giây - Tân Phú) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT không có hỗ trợ của ngân sách Nhà nước (phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 quy mô Bn=17m với TMĐT khoảng 7.973 tỷ đồng): Bộ GTVT đã phê duyệt đề xuất và thực hiện công bố Danh mục dự án kêu gọi đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bộ GTVT đang thẩm định Hồ sơ Báo cáo nghiên cứu khả thi và dự kiến phê duyệt trong Quý I/2018. Sau khi phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi sẽ tổ chức đấu thầu quốc tế theo quy định tại Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ và dự kiến hoàn thành công tác lựa chọn nhà đầu tư để triển khai vào đầu năm 2019. Do dự án thực hiện theo hình thức PPP nên việc lựa chọn được nhà đầu tư hay không còn phụ thuộc vào thị trường.
- Đối với Dự án thành phần II (Tân Phú - Bảo Lộc) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng: Dự án có TMĐT lớn (phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 quy mô Bn=17m với TMĐT khoảng 17.231 tỷ đồng) không thể triển khai theo hình thức BOT, Bộ GTVT đã có văn bản số 10557/BGTVT-KHĐT ngày 08/9/2016 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị huy động vốn vay từ tổ chức JICA (Nhật Bản). Bộ GTVT vẫn đang tiếp tục đã làm việc với UBND tỉnh Lâm Đồng để phối hợp xúc tiến tìm kiếm nguồn vốn khả thi khác để sớm triển khai dự án.
- Đối với Dự án thành phần III (Bảo Lộc - Liên Khương) trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng: Dự án phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 quy mô Bn=17m với TMĐT khoảng 13.061 tỷ đồng, dự kiến thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT cần có sự hỗ trợ NSNN (khoảng 3.409 tỷ đồng) mới đảm bảo khả năng hoàn vốn. Hồ sơ đề xuất dự án đã hoàn thành nhưng chưa thể phê duyệt do theo quy định của Luật Ngân sách và Luật Đầu tư công, dự án đầu tư chỉ được xem xét thẩm định khi được cấp có thẩm quyền chấp thuận về nguồn vốn hỗ trợ, khả năng cân đối vốn cho dự án. Bộ GTVT đã có văn bản số 1907/BGTVT-KHĐT ngày 24/02/2016 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính dự kiến bố trí kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020 (ưu tiên GPMB với kinh phí khoảng 630 tỷ đồng), tuy nhiên, nguồn vốn kế hoạch 2016 - 2020 chưa được cấp có thẩm quyền chấp thuận. Do vậy, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp UBND tỉnh Lâm Đồng làm việc với các Bộ, ngành liên quan để xây dựng kế hoạch phù hợp và cân đối bố trí nguồn vốn làm cơ sở triển khai đảm bảo phù hợp các quy định Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách.
36. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ cần quan tâm đầu tư hệ thống giao thông đường sắt nhằm phục vụ việc đi lại của nhân dân cũng như vận chuyển hàng hóa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó cần chú trọng mở thêm tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam.
Trả lời: Tại công văn số 490/BGTVT-KHĐT ngày 16/01/2018
Để tiếp tục phát huy thế mạnh trong vận tải đường dài, khối lượng lớn, góp phần giảm tải cho đường bộ, Bộ GTVT đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015, trong đó giai đoạn từ nay đến năm 2020 sẽ tập trung đầu tư, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, trong đó ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam để đạt tốc độ chạy tàu bình quân 80 - 90km/h đối với tàu khách và 50 - 60km/h đối với tàu hàng. Đồng thời, để bảo đảm nguồn vốn nhằm từng bước thực hiện quy hoạch nêu trên, theo đề nghị của Bộ GTVT, Chính phủ cũng đã trình Quốc hội thông qua chủ trương bố trí 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng kế hoạch trung hạn 2016 - 2020 cho các dự án đường sắt quan trọng và các dự án đường bộ quan trọng, cấp bách tại Nghị quyết số 52/2017/QH14.
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu vận tải và tăng cường sự kết nối giữa các thành phố lớn trên trục Bắc - Nam (nhất là việc kết nối hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) bằng hệ thống giao thông vận tải tốc độ cao, an toàn, Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt cũng đã xác định và dự kiến lộ trình phát triển tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam với các giai đoạn như sau:
- Đến năm 2020: Nghiên cứu phương án xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao, đường đôi khổ 1.435mm, điện khí hóa; trong đó chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước ưu tiên xây dựng trước những đoạn tuyến có nhu cầu vận tải lớn như đoạn Hà Nội - Vinh, Nha Trang - Sài Gòn;
- Giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2030: Triển khai xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao (trước mắt khai thác tốc độ chạy tàu từ 160-200km/h), đường đôi khổ 1.435mm, điện khí hóa, hạ tầng tuyến có thể đáp ứng khai thác tốc độ cao tốc 350km/h trong tương lai, ưu tiên xây dựng trước những đoạn tuyến có nhu cầu vận tải lớn trên trục Bắc - Nam theo khả năng huy động vốn;
- Tầm nhìn đến năm 2050: Phấn đấu hoàn thành toàn tuyến đường sắt đôi tốc độ cao khổ 1.435mm trên trục Bắc - Nam; sau năm 2050 triển khai tổ chức khai thác tốc độ cao tốc 350km/h.
Căn cứ lộ trình nêu trên, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hiện nay Bộ GTVT đang triển khai rà soát các nghiên cứu trước đây về Dự án để cập nhật, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; dự kiến Bộ GTVT sẽ trình Chính phủ để xem xét, báo cáo Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư vào năm 2019.
37. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị: Hiện tại, hệ thống hạ tầng giao thông của tỉnh Bến Tre chỉ cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mà chưa đảm bảo tính đồng bộ theo quy hoạch. Trong những năm qua vốn đầu tư phát triển từ ngân sách dành cho hạ tầng giao thông của tỉnh Bến Tre còn rất hạn chế. Vì vậy, để tạo động lực lớn hơn cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương giai đoạn từ nay đến năm 2020 và sau năm 2020. Đề nghị các Bộ, ngành Trung ương xem xét, tạo điều kiện để tỉnh Bến Tre sớm được đầu tư một số công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, như sau:
- Sớm đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu II trên Quốc lộ 60 nhằm nâng cao năng lực vận tải, liên kết vùng giữa tỉnh Bến Tre với các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang với thành phố Hồ Chí Minh và giảm áp lực giao thông cho cầu Rạch Miễu 1.
- Sớm triển khai thực hiện cải tạo nâng cấp Quốc lộ 57 đoạn từ phà Đình Khao đến thị trấn Mỏ Cày và đoạn từ Cầu Ván - Khâu Băng để tạo tính kết nối đồng bộ, thông suốt trong hệ thống đường quốc lộ giữa Bến Tre với Vĩnh Long, Trà Vinh và các tỉnh trong khu vực.
Trả lời: Tại công văn số 643/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018
1. Về kiến nghị đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu 2:
Bộ GTVT đã có Quyết định số 2669/QĐ-BGTVT ngày 25/8/2016 cho phép lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi – Dự án đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu 2 nối 2 tỉnh Tiền Giang và Bến Tre và giao cho các đơn vị liên quan xúc tiến, tìm kiếm nguồn vốn để đầu tư dự án. Tại thông báo số 389/TB-VPCP ngày 22/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ GTVT khẩn trương hoàn thành báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư, theo hình thức xã hội hóa. Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định làm cơ sở triển khai thực hiện các bước tiếp theo.
2. Về kiến nghị đầu tư mở rộng Quốc lộ 57:
Bộ GTVT đã hoàn thiện các thủ tục theo quy định của Luật Đầu tư công để đưa Dự án cải tạo, nâng cấp QL57 đoạn từ bến phà Đình Khao đến thị trấn Mỏ Cày vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 với tổng mức đầu tư 1.050 tỷ đồng. Tại Nghị quyết số 52/2017/QH14, Quốc hội đã giao Chính phủ sử dụng 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng kế hoạch trung hạn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020 cho các dự án đường sắt quan trọng và đường bộ quan trọng, cấp bách. Bộ GTVT đã có Văn bản số 189/BGTVT-KHĐT ngày 08/01/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về xây dựng tiêu chí lựa chọn và dự kiến danh mục dự án cấp bách đề nghị bố trí vốn từ nguồn dự phòng trung hạn nêu trên, trong đó đã kiến nghị phân bổ 875 tỷ đồng để đầu tư Dự án cải tạo, nâng cấp QL57 đoạn từ bến phà Đình Khao đến thị trấn Mỏ Cày.
38. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Với lợi thế của dòng sông Văn Úc chạy dọc huyện Tiên Lãng (Hải Phòng), đây là dòng sông có độ sâu rất phù hợp để phát triển ngành đóng tàu, thuận lợi cho vận tải bằng đường thủy. Để phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương và phát triển kinh tế - xã hội của khu vực. Đề nghị Bộ GTVT nghiên cứu đầu tư xây dựng tuyến đường ven sông Văn Úc (đường 212B) nối từ tuyến đường ven biển (đang được triển khai) - khu công nghiệp Vinh Quang - Cụm công nghiệp Tiên Thắng - Cụm công nghiệp Quang Phục - Cụm công nghiệp thị trấn Tiên Lãng đến đường 10 để tạo điều kiện cho địa phương phát triển kinh tế - xã hội.
Trả lời: Tại công văn số 272/BGTVT-KHĐT ngày 09/01/2018
Theo Luật Ngân sách nhà nước, tuyến đường 212B nối từ đường ven biển đến QL.10 dọc theo sông Văn Úc là công trình giao thông do UBND thành phố Hải Phòng quản lý, đầu tư.
Do tuyến đường 212B có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, phát huy tiềm năng, lợi thế của sông Văn Úc, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương, vì vậy, Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm nghiên cứu đầu tư xây dựng tuyến đường 212B nêu trên. Đề nghị UBND thành phố Hải Phòng huy động các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư tuyến đường và thông báo đến cử tri thành phố được biết về việc đầu tư công trình.
39. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Vừa qua, Bộ Giao thông vận tải rất quan tâm trả lời các ý kiến kiến nghị cử tri Tây Ninh nhất là các nội dung liên quan đến sửa chữa, cải tạo Quốc lộ 22B; đồng thời Bộ cũng đã giao cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam là chủ đầu tư Dự án sửa chữa, cải tạo QL.22B theo phân kỳ đầu tư sửa chữa trong 3 năm (2017 - 2019) nhưng đến nay gần hết năm 2017, chưa thấy triển khai thực hiện, cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm sớm triển khai sửa chữa, cải tạo đoạn từ Gò Dầu đến TP. Tây Ninh vì hiện nay nhiều đoạn đường hư hỏng và xuống cấp.
Trả lời: Tại công văn số 711/BGTVT-KCHT ngày 19/01/2018
1. Để hạn chế sự xuống cấp hư hỏng phát sinh đối với kết cấu mặt đường và để đảm bảo an toàn giao thông; Bộ Giao thông vận tải đã có Văn bản số 13222/BGTVT-KCHT ngày 08/11/2016 chấp nhận cho phép lập Dự án sửa chữa cải tạo QL.22B từ Km0+000 đến Km84+162 tỉnh Tây Ninh; với quy mô hạn chế, kinh phí bố trí cho dự án khoảng 74,2 tỷ đồng từ nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương. Tiếp đó UBND tỉnh Tây Ninh có Công văn số 277/UBND-KTN ngày 09/3/2017 kiến nghị phương án sửa chữa QL.22B tỉnh Tây Ninh với quy mô sửa chữa lớn và cải tạo, kinh phí dự kiến 300 tỷ đồng.
Để xem xét giải quyết kiến nghị của UBND tỉnh Tây Ninh; Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức họp các cơ quan chức năng của Bộ, xem xét khả năng cân đối vốn để thực hiện dự án. Bằng văn bản số 4407/BGTVT-KCHT ngày 25/4/2017, Bộ Giao thông vận tải đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam làm chủ đầu tư Dự án sửa chữa cải tạo QL.22B từ Km0+000 đến Km84+162 tỉnh Tây Ninh, thực hiện trong 03 năm (từ 2017 đến 2019), kinh phí khoảng 255 tỷ đồng từ nguồn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương
2. Triển khai nhiệm vụ được giao, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã tổ chức lựa chọn và ký hợp đồng tư vấn đề khảo sát, thiết kế lập dự án. Trên cơ sở quy mô, giải pháp kỹ thuật xác định cho dự án và để đảm bảo đúng quy định về quản lý đầu tư xây dựng; Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã trình và được Bộ Giao thông vận tải cho phép lập, triển khai dự án tại Quyết định số 3084/QĐ-BGTVT ngày 06/11/2017.
Đến nay, công tác khảo sát thiết kế, lập dự án đầu tư đã hoàn thành. Ngày 16/11/2017, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã trình Bộ phê duyệt dự án đầu tư sửa chữa một số hạng mục trên QL.22B từ Km0+000 đến Km84+162 tỉnh Tây Ninh.
Bộ Giao thông vận tải cũng đã chủ trì, phối hợp cùng Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Ban Quản lý dự án 8 và Tư vấn kiểm tra hiện trường và đang hoàn chỉnh thủ tục thẩm định, phê duyệt dự án. Sau khi dự án được phê duyệt, Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam khẩn trương hoàn thiện các thủ tục tiếp theo để triển khai thi công đồng bộ, đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến và thời gian thực hiện dự án như đã xác định.
40. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri phản ánh Dự án nâng cấp Quốc lộ 1 được chính thức thông xe và đi vào hoạt động mới được 2 năm nhưng đoạn qua địa phận huyện Phù Mỹ, Phù Cát tỉnh Bình Định liên tục hư hỏng trầm trọng, mặc dù đã được Bộ GTVT chỉ đạo các nhà đầu tư, Ban quản lý dự án, nhà thầu và các đơn vị liên quan sửa chữa khắc phục trong thời gian qua. Tình trạng “hỏng lại sửa, sửa lại hỏng” gây khó khăn, nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông trên tuyến đường này. Cử tri kiến nghị Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo các đơn vị liên quan kiểm tra, nghiên cứu, có giải pháp khắc phục căn bản.
Trả lời: Tại công văn số 755/BGTVT-CQLXD ngày 22/01/2018
Các dự án nâng cấp mở rộng QL1A đoạn qua tỉnh Bình Định đã hoàn thành thông xe vào ngày 14/10/2015. Sau thông xe, tuyến đường đã trải qua các mùa mưa lũ lớn và kéo dài vào các năm 2016 và 2017gây ra tình trạng nhiều đoạn đường bị ngập liên tục. Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng mặt đường (bao gồm cả những đoạn đã đầu tư nâng cấp từ trước).
Do địa bàn tỉnh Bình Định nằm trong vùng có biến đổi khí hậu đặc biệt, cần có giải pháp để tăng cường ứng phó đảm bảo bền vững công trình, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017 về việc khắc phục hậu quả bão lũ đối với dự án quốc lộ 1 đoạn qua các tỉnh từ Bình Định đến Khánh Hòa.
Đồng thời với việc sửa chữa hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông, hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các biện pháp sửa chữa khôi phục căn bản và tăng cường khả năng chịu tác động của thời tiết khắc nghiệt khu vực tỉnh Bình Định. Cụ thể:
- Về công tác đảm bảo an toàn giao thông: Tính đến ngày 31/12/2017 cơ bản những vị trí hư hỏng mặt đường đã được thực hiện đảm bảo giao thông bằng thảm bê tông nhựa hoặc bê tông xi măng.
- Về tiến độ khắc phục sửa chữa các hư hỏng: Các nhà thầu đã tiến hành công tác sửa chữa, tuy nhiên tiến độ còn chậm vì thời tiết khu vực vẫn còn mưa do ảnh hưởng của các cơn bão (số 15, 16 năm 2017; số 01 năm 2018 và các đợt không khí lạnh liên tiếp tăng cường từ phía Bắc). Hiện tại, các nhà thầu thi công đang thực hiện việc chuẩn bị đủ vật tư, thiết bị để đẩy nhanh công tác sửa chữa khôi phục theo Tiêu chuẩn của Dự án khi thời tiết thuận lợi. Dự kiến đến hết tháng 01/2018, hoàn thành cơ bản công tác sửa chữa trên toàn tuyến, đảm bảo khai thác bình thường theo nội dung chỉ đạo của Bộ GTVT tại Công điện số 75/CĐ-BGTVT ngày 07/12/2017 về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong dịp tết Dương lịch, Tết Nguyên đán Mậu Tuất và Lễ hội xuân năm 2018.
- Về giải pháp căn bản, theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017: Bộ GTVT đang tiếp tục chỉ đạo và kiểm tra công tác sửa chữa khắc phục, đồng thời triển khai các biện pháp phù hợp để tăng cường khả năng chịu tác động của thời tiết và các yếu tố liên quan, nhằm đảm bảo an toàn cho công trình do ảnh hưởng của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thường của khu vực Miền Trung nói chung và khu vực Bình Định nói riêng cũng như đảm bảo hiệu quả khai thác lâu dài của công trình. Theo đó, Bộ GTVT đang chỉ đạo khẩn trương hoàn thành các thủ tục phê duyệt hồ sơ thiết kế, dự toán để lựa chọn nhà thầu và ký hợp đồng thi công theo quy định. Dự kiến triển khai thi công trong Quý I/2018 và hoàn thành trước mùa mưa năm 2018.
Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả của Dự án, đề nghị HĐND và UBND tỉnh Bình Định phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, có biện pháp tuyên truyền chống lấn chiếm phạm vi hành lang an toàn đường bộ của các tổ chức, cá nhân dọc hai bên tuyến để đảm bảo dòng chảy tự nhiên về mùa mưa lũ; hoàn trả lại nguyên trạng đoạn tuyến QL đã thi công theo thiết kế được duyệt để khắc phục tình trạng nước tràn hoặc ngập mặt đường khi mưa bão. Với các khu dân cư địa phương đang triển khai phải đảm bảo xây dựng đúng quy hoạch đã phê duyệt và hoàn tất thủ tục đấu nối với đoạn tuyến QL1(bao gồm cả việc thiết kế thoát nước phù hợp) với cơ quan quản lý đường bộ theo quy định.
41. Cử tri các tỉnh Ninh Thuận, An Giang, Nghệ An, Phú Thọ kiến nghị: Việc thực hiện quy định về đấu thầu đối với các dự án giao thông theo hình thức BOT đang có nhiều bất cập. Hiện nay, hầu hết các dự án giao thông thực hiện theo hình thức BOT đều được chỉ định thầu nên đang gây nhiều sự hoài nghi về sự minh bạch, khách quan và hiệu quả dự án. Nhằm nâng cao năng lực của Nhà đầu tư, tăng cường tính cạnh tranh và hạn chế tình trạng “chạy dự án”, cử tri đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng cần thực hiện nghiêm các quy định về đấu thầu trong việc thực hiện các dự án BOT, đảm bảo các dự án BOT phải tổ chức đấu thầu công khai.
Trả lời: Tại công văn số 879/BGTVT-ĐTCT ngày 24/01/2018
Thời gian qua, hầu hết các dự án BOT do Bộ GTVT là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đều triển khai trong giai đoạn sau năm 2010, việc lựa chọn nhà đầu tư chịu sự điều chỉnh bởi Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT, BTO và BT. Theo quy định tại điều 14, Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, có 2 hình thức lựa chọn nhà đầu tư là chỉ định thầu và đấu thầu, cụ thể:
- Hình thức đấu thầu: Quy định đăng tải danh mục dự án trên Báo Đấu thầu và Trang thông tin điện tử của Bộ trong thời gian 30 ngày. Nếu có 02 nhà đầu tư trở lên đăng ký thì tiến hành đấu thầu.
- Hình thức chỉ định thầu: Áp dụng đối với các dự án trong thời gian đăng tải danh mục dự án chỉ có 01 nhà đầu tư đăng ký thực hiện hoặc các dự án cần thiết để đáp ứng nhu cầu cấp bách về việc sử dụng công trình kết cấu hạ tầng do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Các dự án BOT do Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ yếu áp dụng hình thức chỉ định thầu do một số dự án cấp bách được Thủ tướng Chính phủ cho phép chỉ định Nhà đầu tư, một số dự án khác thuộc diện đăng tải trong vòng 30 ngày để kêu gọi đầu tư, nhưng đều chỉ có 1 nhà đầu tư đăng ký. Mặc dù thực hiện việc chỉ định Nhà đầu tư theo quy trình yêu cầu nhưng cũng còn hạn chế dự án do việc thực hiện theo hình thức chỉ định thầu chưa đem lại hiệu quả cao hơn so với đấu thầu cạnh tranh.
Để hoàn thiện chính sách pháp luật, bảo đảm phát huy hiệu quả việc đầu tư khai thác các công trình giao thông theo hình thức BOT nói riêng và hình thức đối tác công tư (PPP) nói chung, Ngày 21/10/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư, khai thác các công trình giao thông theo hình thức BOT. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung thực hiện các nhiệm vụ và trong đó có giải pháp:“tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức BOT đặt trong tổng thể hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức PPP với định hướng nghiên cứu xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật tạo cơ sở pháp lý cao, thống nhất, đồng bộ cho hình thức đầu tư này” và “lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu phải thực hiện đấu thầu công khai, minh bạch theo quy định pháp luật, hạn chế tối đa chỉ định thầu. Quy định và thực hiện đầy đủ việc công khai minh bạch các thông tin về dự án để thuận tiện cho người dân giám sát”.
Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành nghiên cứu để tiến tới xây dựng Luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư để trình Quốc hội. Trước mắt, Chính phủ đã chỉ đạo điều chỉnh ngay Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, Nghị định số 30/2015/NĐ-CP và các Thông tư hướng dẫn để hạn chế tối đa các bất cập về chính sách. Đồng thời, Bộ GTVT đã đưa vào hoạt động chính thức trang thông tin điện tử công bố thông tin chi tiết về các dự án PPP tại địa chỉ ppp.mt.gov.vn để tăng cường tính công khai, minh bạch, thuận tiện cho người dân và các tổ chức chính trị - xã hội giám sát, tìm hiểu thông tin về dự án thực hiện theo hình thức PPP do Bộ GTVT là Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
42. Cử tri các tỉnh Hưng Yên, Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri hoan nghênh việc Quốc hội tổ chức giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật trong việc đầu tư xây dựng các công trình giao thông theo hình thức BOT. Trong các sai phạm đã được Chính phủ, Bộ GTVT tiếp thu xong cử tri chưa hài lòng về việc xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước (có trách nhiệm người đứng đầu) trong việc quyết định đầu tư, phê duyệt dự toán, chỉ định thầu, nghiệm thu không đúng quy định gây thất thoát ngân sách nhà nước mà không bị xử lý trách nhiệm.
Trả lời: Tại công văn số 877/BGTVT-ĐTCT ngày 24/01/2018
Để phát triển nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, việc đề ra giải pháp xã hội hóa đầu tư để huy động nguồn lực ngoài ngân sách là xu hướng tất yếu khách quan, là giải pháp hữu hiệu để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và nâng cao chất lượng dịch vụ giao thông vận tải, là chủ trương đúng đắn của Đảng đã được thể hiện tại Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Được sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và sự phối hợp hiệu quả của các bộ, ngành, cũng như sự đồng tình ủng hộ của chính quyền các địa phương, sau hơn 5 năm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải đã hoàn thành nhiều dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT và BT với quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu đầu tư chung của ngành, nhất là trong điều kiện Nhà nước còn nhiều khó khăn, với nhiều áp lực về nợ công. Cho tới nay, nhiều tuyến quốc lộ đã được nâng cấp, mở rộng; hình thành nhiều tuyên cao tốc đạt tiêu chuẩn quốc tế... cải thiện đáng kể điều kiện đi lại, từng bước đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa ngày càng tăng của người dân và góp phần đổi mới, hoàn thiện bức tranh hạ tầng giao thông vận tải tại Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy việc đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT, BT cũng bộc lộ một số tồn tại về cơ chế chính sách và công tác quản lý nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện như sau:
1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hình thức đầu tư BOT chưa hoàn thiện và đồng bộ, một số quy định chưa phù hợp thực tế và thông lệ quốc tế; quá trình xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh hình thức BOT chưa lường hết được các tác động đối với người sử dụng đường.
2. Việc đầu tư cải tạo, mở rộng và hiện đại hóa các công trình hiện có là lĩnh vực được Chính phủ khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT quy định tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CP. Cơ bản các dự án đều được Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư sau khi có ý kiến đồng thuận của các bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, việc cải tạo, mở rộng, nâng cấp các công trình giao thông hiện có làm người dân đang được sử dụng đường bộ không phải trả phí sẽ phải trả phí, không còn sự lựa chọn miễn phí gây ra tác động nhất định.
3. Công tác lập, thẩm định, tính toán phương án tài chính và phê duyệt dự án của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn một số nội dung chưa hợp lý; công tác thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán của nhà đầu tư còn bất cập, tồn tại một số sai sót.
4. Công tác lựa chọn nhà đầu tư còn bất cập, các dự án cơ bản áp dụng hình thức chỉ định thầu. Mặc dù việc chỉ định thầu được thực hiện theo quy định pháp luật nhưng hình thức này còn thiếu sự cạnh tranh và có dư luận cho rằng còn thiếu minh bạch; năng lực nhà đầu tư trong nước còn hạn chế; chưa thu hút được nhà đầu tư, tổ chức tín dụng nước ngoài tài trợ vốn.
5. Việc giám sát thi công chưa chặt chẽ, một số dự án chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác quyết toán còn chậm, khó khăn trong việc xác định giá trị đầu tư thực tế, xác định thời gian thu giá hoàn vốn của dự án.
6. Công tác lựa chọn vị trí đặt trạm thu giá và chính sách giá tại một số dự án còn bất cập nên chưa nhận được sự đồng thuận của người dân. Chưa có giải pháp hiệu quả để quản lý nguồn thu của các trạm thu giá, còn có ý kiến cho rằng có hiện tượng gian lận trong thu giá.
Thực tế với vai trò Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Bộ Giao thông vận tải cũng chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình tổ chức thực hiện, đồng thời Bộ Giao thông vận tải đã chủ động có văn bản số 4771/BGTVT-TC ngày 28/4/2014 đề nghị Kiểm toán Nhà nước hỗ trợ kiểm toán các dự án BOT để kịp thời chấn chỉnh các tồn tại ngay trong quá trình thi công, tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót, gây thiệt hại cho Nhà nước trong quá trình thi công công trình.
Tính đến thời điểm này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã triển khai nhiều cuộc thanh tra, kiêm toán đối với các dự án BOT, BT như: Thanh tra Chính phủ đã có kết luận 08 dự án, Thanh tra Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có kết luận 14 dự án, Thanh tra Bộ Giao thông vận tải đã có kết luận 30 dự án, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán 47 dự án, Thanh tra Bộ Xây dựng có kết luận 01 dự án. Đồng thời, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã giám sát trong hơn 07 tháng đối với các dự án BOT do Bộ GTVT là CQNNCTQ và đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017.
Tại kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán và đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều khẳng định tính đúng đắn của chủ trương kêu gọi đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức đối tác công tư trong điều kiện nguồn lực ngân sách hạn hẹp, chỉ ra một số tồn tại trong quá trình thực hiện đầu tư các dự án BOT trong thời gian vừa qua nhưng không phát hiện có tham nhũng, lãng phí hoặc sai phạm trong quyết định chủ trương đầu tư, vị trí trạm thu giá.
Đối với các tồn tại sai sót thuộc chủ quan, Bộ Giao thông vận tải đã nghiêm túc tiếp thu, rút kinh nghiệm và đã cập nhật điều chỉnh các sai sót theo ý kiến kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán. Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải đã yêu cầu các tập thể, cá nhân có liên quan nghiêm túc rút kinh nghiệm, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân để xử lý theo quy định.
43. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Theo quy định hiện hành, Nhà nước chỉ quy định về khoảng cách đặt các trạm thu phí BOT giao thông chứ chưa quy định về quảng đường (số kilomet) tối thiểu để thực hiện dự án theo hình thức BOT nên dẫn đến tình trạng cắt khúc đường giao thông để thực hiện dự án, từ đó gây nhiều khó khăn cho người dân, doanh nghiệp vận tải. Cử tri đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành chức năng nghiên cứu, ban hành quy định về quãng đường tối thiểu các doanh nghiệp đầu tư theo hình thức BOT.
Trả lời: Tại công văn số 724/BGTVT-ĐTCT ngày 22/01/2018
Việc lựa chọn dự án kết cấu hạ tầng giao thông để thực hiện đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) nói chung hay hình thức hợp đồng BOT nói riêng được căn cứ theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (nội dung chi tiết điều này nêu tại Phụ lục đính kèm), theo đó không có quy định về chiều dài quãng đường (số kilomet) tối thiểu để đầu tư các dự án theo hình thức BOT.
Đối với kiến nghị của cử tri về việc ban hành quy định về quãng đường tối thiểu để đầu tư các dự án theo hình thức BOT, Bộ Giao thông vận tải sẽ xem xét nghiêm túc và nghiên cứu kỹ lưỡng. Nếu thấy phù hợp Bộ Giao thông vận tải sẽ đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành liên quan bổ sung chỉnh sửa để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hình thức đầu tư PPP nói chung, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các doanh nghiệp vận tải tham gia giao thông đường bộ. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đã yêu cầu Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải lựa chọn đầu tư các dự án giao thông theo thứ tự ưu tiên phù hợp với từng hình thức đầu tư dựa trên lợi thế, đặc điểm của từng vùng cũng như trong cả hệ thống giao thông, đối với các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để đảm bảo quyền lựa chọn cho người dân, không còn đầu tư các dự án cải tạo nâng cấp tuyến đường độc đạo hiện hữu.
44. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Tình trạng các trạm thu phí BOT mọc lên trên những cung đường không liên quan gì đến các dự án BOT khiến người dân bức xúc và được xem là nguyên nhân của việc dùng tiền lẻ trả phí qua trạm để phản đối vị trí đặt trạm, gây ách tắc giao thông ở Bến Thuỷ (Vinh - Nghệ An), Cai Lậy (Tiền Giang), Cầu Rác (Hà Tĩnh), Biên Hoà (Đồng Nai)...thời gian vừa qua. Mức phí qua các trạm này khá cao, lên xuống tuỳ tiện khiến người dân mất niềm tin vào sự minh bạch tài chính trong các dự án BOT. Đề nghị Chính phủ tăng cường kiểm tra, quản lý đối với các trạm thu phí giao thông, tránh việc lập trạm tuỳ tiện như hiện nay.
Trả lời: Tại công văn số 640/BGTVT-ĐTCT ngày 19/01/2018
Trong quá trình lập, phê duyệt dự án đầu tư các dự án BOT, vị trí trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ và mức giá được Bộ GTVT thực hiện tuân thủ đúng các quy định pháp luật, cụ thể:
- Về vị trí trạm thu giá dịch vụ:
Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ phí, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì ban hành các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC, trong đó có quy định việc đặt trạm thu giá, cụ thể: (1) Đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định.
Trong quá trình thực hiện, trình tự, thủ tục liên quan đến việc xác định vị trí trạm thu giá được Bộ GTVT thực hiện đúng quy định pháp luật: Tư vấn khảo sát hiện trường dự kiến vị trí trạm thu giá và thỏa thuận với địa phương; Bộ GTVT lấy ý kiến của các địa phương (có nhiều trạm thu giá nhận được sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội) và Bộ Tài chính.
Tuy nhiên, khi triển khai việc thu giá có một số phản ứng về vị trí và mức giá tại một số trạm do một số nguyên nhân chủ yếu như: (1) Quy định cho phép đặt trạm có cự ly nhỏ hơn 70 km nhưng việc tuyên truyền không tốt dẫn đến có dư luận cho rằng việc đặt trạm < 70km là vi phạm pháp luật; (2) Hình thức thu giá lượt chỉ công bằng một cách tương đối: trên thế giới chỉ có 2 hình thức thu giá là thu giá lượt và thu giá theo chiều dài đường sử dụng (thu kín); đối với hình thức thu kín, người dân trả phí trên số km thực đi và đảm bảo công bằng nhưng chỉ áp dụng đối với đường cao tốc vì kiểm soát được sự ra, vào của các phương tiện; đối với các quốc lộ, chỉ áp dụng được hình thức thu giá lượt và hình thức này có hạn chế là chỉ đáp ứng được tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả phí trong khi đó những người đi quãng đường dài 50÷60 km ở khoảng cách giữa hai trạm thu phí không phải trả phí).
Qua rà soát thì các ý kiến phản đối tập trung vào một số trạm thu giá đặt trên tuyến chính thu giá hoàn vốn cho dự án đầu tư nâng cấp tuyến chính và xây dựng tuyến tránh như các trạm Bến Thuỷ (Vinh - Nghệ An), Cai Lậy (Tiền Giang), Cầu Rác (Hà Tĩnh), Biên Hoà (Đồng Nai)...Trong các trạm thu giá này, một số trạm tận dụng lại trạm trước đây đang thu phí nộp ngân sách nhà nước chuyển sang thu phí hoàn vốn các dự án BOT để tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có, không đầu tư mới; đối với các trạm tuyến tránh mới xây dựng, trong quá trình nghiên cứu đầu tư dự án, Bộ GTVT đã xem xét các phương án: (1) Phương án đặt trạm trên tuyến tránh, tuy nhiên phương án này không khả thi về tài chính, không có nhà đầu tư tham gia và toàn bộ lưu lượng sẽ tập trung sang phần tuyến chính đi qua trung tâm đô thị, tốc độ lưu thông qua nội đô chậm và sẽ tiếp tục gây ùn tắc, mất an toàn giao thông; (2) phương án không đầu tư tuyến tránh, chỉ mở rộng đoạn tuyến chính, phương án này có kinh phí đầu tư lớn, giải phóng mặt bằng nhiều và phức tạp, chưa phù hợp với quy hoạch của địa phương, các phương tiện vẫn đi qua trung tâm đô thị với tốc độ chậm, không giải quyết được ùn tắc. Do vậy, phương án đầu tư được lựa chọn là xây dựng tuyến tránh kết hợp cải tạo, tăng cường tuyến chính, đặt trạm trên tuyến hiện hữu.
- Về mức giá dịch vụ: Giai đoạn trước ngày 01/01/2017, theo quy định Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính, chậm nhất trước 90 ngày kể từ ngày dự kiến tổ chức thu phí, nhà đầu tư phải gửi Bộ GTVT công văn đề nghị quy định mức thu, kèm theo hồ sơ. Trên cơ sở hồ sơ đề nghị của nhà đầu tư, Bộ GTVT có văn bản đề nghị Bộ Tài chính xem xét ban hành văn bản quy định thu phí. Mức phí chính thức áp dụng sẽ được Bộ Tài chính ban hành thông tư riêng cho từng trạm thu giá và trước khi ban hành thông tư, Bộ Tài chính có lấy ý kiến của địa phương, lấy ý kiến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể khẳng định, trình tự thủ tục xác định mức phí, ban hành thông tư và triển khai thu phí đều thực hiện chặt chẽ, tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành. Từ ngày 01/01/2017, phí sử dụng dịch vụ đường bộ chuyển thành giá, thẩm quyền quyết định giá thuộc Bộ GTVT.
- Về việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ trong thời gian vừa qua: Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016, Bộ GTVT và các Nhà đầu tư BOT đã giảm giá đối với xe loại 4 (xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit) từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 (xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit) từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng tại hầu hết các dự án. Ngoài ra, để khắc phục một phần bất cập trong chính sách phí, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt làm việc với các địa phương và Nhà đầu tư căn cứ vào điều kiện thực tế từng trạm đề đề xuất giải pháp xử lý trên phạm vi cả nước (miễn giảm giá đối với các hộ dân quanh trạm). Việc giảm giá tại các trạm phải dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả phương án tài chính của các dự án, đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, Nhà đầu tư và người sử dụng, phù hợp với quy định pháp luật. Trên cơ sở đề xuất của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, địa phương và Nhà đầu tư, Bộ GTVT mới chấp thuận điều chỉnh giảm mức giá tại các trạm. Như vậy, không có việc điều chỉnh giá phí lên xuống tuỳ tiện như ý kiến của cử tri.
- Về việc tăng cường kiểm tra, quản lý đối với các trạm thu giá giao thông
Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri về việc phải tăng cường kiểm tra, quản lý đối với các trạm thu giá. Trong quá trình triển khai các dự án BOT, Bộ GTVT xác định việc kiểm tra, quản lý đối với các trạm thu giá là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của CQNNCTQ trong quá trình thực hiện, vận hành, khai thác dự án đầu tư theo hình thức BOT. Do vậy, Bộ GTVT đã giao cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (đơn vị có kinh nghiệm trong việc quản lý, vận hành các dự án đường bộ) có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc tổ chức thu phí và doanh thu thu phí như: (i) theo dõi, kiểm tra doanh thu thu phí; (ii) công tác tổ chức thu phí; (iii) có biện pháp chống thất thoát doanh thu; (iv) được quyền tạm đình chỉ, dừng thu phí khi Nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án vi phạm.
Để quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch công tác thu phí, Bộ GTVT đã xây dựng, ban hành Thông tư 49/2016/TT-BGTVT ngày 30/12/2016 quy định về xây dựng, tổ chức và hoạt động của trạm thu phí sử dụng đường bộ, theo đó dữ liệu của hệ thống quản lý thu bao gồm: các tập tin cơ sở dữ liệu, các tập tin hình ảnh chụp phương tiện lưu thông qua trạm, các tập tin hình ảnh liên tục giám sát làn phải được sao lưu dưới dạng tập dữ liệu và lưu giữ tối thiểu 05 năm. Các tập tin hình ảnh giám sát cabin và giám sát toàn cảnh phải được sao lưu dưới dạng tập dữ liệu và lưu giữ tối thiểu 01 năm.
Đồng thời, Bộ GTVT đang triển khai hệ thống thu giá tự động không dừng ở các trạm thu giá BOT. Hiện nay, đã vận hành thương mại được 15 trạm, đã lắp đặt xong, chuẩn bị vận hành 10 trạm. Dự kiến sẽ triển khai áp dụng tại toàn bộ các trạm trên quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên trong năm 2018 và áp dụng trên toàn quốc trong năm 2019. Ngoài ra, Bộ GTVT đang giao cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam lập dự án đầu tư hệ thống giám sát trực tuyến tại tất cả các trạm.
Với các giải pháp đồng bộ này, việc kiểm soát doanh thu sẽ đảm bảo chặt chẽ, minh bạch, tốc độ lưu thông qua các trạm thu phí sẽ được cải thiện.
- Về chủ trương đầu tư các dự án BOT: Nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, trong thời gian tới, Bộ GTVT chỉ kêu gọi đầu tư các công trình xây dựng mới để bảo đảm quyền lựa chọn cho người dân, không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu.
45. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh vị trí đặt 02 trạm thu phí BOT (đoạn qua tỉnh Quảng Nam) có khoảng cách 53 km không đảm bảo khoảng cách tối thiểu 70km theo quy định Điểm b, Khoản 2, Điều 2 Thông tư 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính; hiện nay mức thu phí quá cao (gấp 3,5 lần mức phí trước đây), gây bức xúc trong nhân dân. Đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo di dời trạm đến vị trí đảm bảo khoảng cách 70km; chỉ đạo hạ mức thu phí tại 02 trạm này; đồng thời xem xét, miễn giảm mức thu phí đối với các phương tiện thuộc địa bàn tỉnh Quảng Nam khi lưu thông qua 2 trạm thu phí trên.
Trả lời: Tại công văn số 777/BGTVT-ĐTCT ngày 22/01/2018
Theo quy định tại các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính về khoảng cách giữa các trạm thu phí BOT như sau: (1) Đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định. Như vậy, pháp luật không quy định về khoảng cách giữa các trạm thu phí (nội dung này cũng đã được Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ văn tại văn bản số 1157/BTC-CST ngày 20/10/2017).
Đối với Quốc lộ 1 qua địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện bố trí 2 trạm thu giá là trạm Tam Kỳ (Km997+100) thu giá hoàn vốn cho dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km987-Km1027 và trạm Km944 thu giá hoàn vốn cho Dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Hòa Cầm - Hòa Phước, Tứ Câu - Vĩnh Điện và đoạn Km947-Km987. Khoảng cách giữa 2 trạm trên là 53Km. Hiện nay, trạm Km944 cách trạm Bắc hầm Hải Vân, thành phố Đà Nẵng là 50km, trạm Tam Kỳ (Km997+100) cách trạm Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi là 67km. Như vậy, khoảng cách giữa các trạm thu giá trên địa bàn các tỉnh, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi là tương đương như nhau. Việc di chuyển các trạm thu giá trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để đảm bảo khoảng cách 70km như đề xuất của cử tri không khả thi do khi đó khoảng cách giữa trạm thu giá trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến các trạm thu giá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi quá gần nhau.
- Về mức giá dịch vụ: Quá trình ban hành mức giá tại các trạm nêu trên tuân thủ đúng quy định Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính. Mức giá được Bộ Tài chính ban hành Thông tư riêng cho từng dự án. Mức giá này tương đương với mức giá chung trên toàn quốc lộ 1 đang thu.
- Về việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ tại 02 trạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, Bộ GTVT và các Nhà đầu tư BOT đã giảm giá đối với xe loại 4 (xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit) từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 (xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit) từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng tại 02 trạm thu giá trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, trên cơ sở đề xuất của UBND tỉnh Quảng Nam, kết quả đàm phán của Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các Nhà đầu tư, Bộ GTVT đã miễn giảm giá đối với các phương tiện qua 02 trạm này như sau: (1) Giảm giá cho các phương tiện quanh trạm thu giá; (2) đã giảm giá chung cho các phương tiện qua trạm thu giá Tam Kỳ (mỗi loại xe giảm 5.000 đồng/lượt). Trong thời gian tới, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam trên cơ sở số liệu quyết toán dự án, lưu lượng xe thực tế qua trạm, các chi phí quản lý vận hành đã được chấp thuận tiếp tục cập nhật, tính toán phương án tài chính của các dự án để xem xét việc tiếp tục giảm giá tại các trạm này.
46. Cử tri tỉnh Bình Dương và thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri bày tỏ sự bức xúc đối với việc thực hiện các dự án BOT trong lĩnh vực giao thông trên địa bàn cả nước thời gian qua, trong đó có việc lập trạm thu giá không đúng vị trí, một số tuyến đường chỉ sửa chữa cũng lập trạm thu giá. Đề nghị Chính phủ xem lại vấn đề này, cần xử lý nghiêm khắc những người có liên quan.
Trả lời: Tại công văn số 878/BGTVT-ĐTCT ngày 24/01/2018
- Về vị trí trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ:
Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ phí, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì ban hành các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC, trong đó có quy định việc đặt trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ, cụ thể: (1) Đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định. Đối với đường cao tốc thực hiện theo hình thức thu giá kín không đặt vấn đề cự ly các trạm thu giá.
Trong quá trình thực hiện, trình tự, thủ tục liên quan đến việc xác định vị trí trạm thu giá được Bộ GTVT thực hiện đúng trình tự hướng dẫn của quy định pháp luật: Tư vấn khảo sát hiện trường dự kiến vị trí trạm thu giá và thỏa thuận với địa phương; Bộ Giao thông vận tải lấy ý kiến của các địa phương (có nhiều trạm thu giá nhận được sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội) và Bộ Tài chính. Quá trình ban hành thông tư thu giá của Bộ Tài chính cũng đã thực hiện đúng quy định pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật (lấy ý kiến các cơ quan liên quan, đăng tải trên trang thông tin điện tử để lấy ý kiến góp ý, có chính sách miễn giảm đối với người dân có nhu cầu qua lại gần trạm thu giá thông qua yêu cầu nhà đầu tư phải bán vé quý, vé tháng, miễn phí toàn bộ cho mô tô, xe thô sơ... để các phương tiện cơ giới có quyền đi lại nhiều lần nhưng chỉ trả giá vé một lần trong ngày).
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thu giá dịch vụ đã xảy ra những bất cập như cử tri đã nêu về vị trí trạm thu giá khi lựa chọn dự án đầu tư theo hình thức BOT. Qua đánh giá, nguyên nhân chính là hình thức thu giá dịch vụ chưa đảm bảo tuyệt đối công bằng cho người sử dụng (chỉ miễn giảm cho xe máy, xe thô sơ và một số xe chuyên dùng; không miễn giá cho các phương tiện của các hộ dân sinh sống trong khu vực lân cận trạm). Về hình thức thu giá kín, người dân trả trên số km thực đi và đảm bảo công bằng nhưng chỉ áp dụng được đối với đường cao tốc vì kiểm soát được sự ra, vào của các phương tiện. Đối với các quốc lộ, chỉ áp dụng được hình thức thu hở (do quốc lộ thường có nhiều đường ngang và lối ra, vào các khu dân cư) và hình thức này có hạn chế là chỉ có thể đảm bảo tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm thu giá đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả trong khi đó những người đi quãng đường dài 40÷50 km ở khoảng cách giữa hai trạm thu giá thì vẫn không phải trả).
Để hoàn thiện chính sách pháp luật, bảo đảm phát huy hiệu quả việc đầu tư khai thác các công trình giao thông theo hình thức BOT nói riêng và hình thức đối tác công tư (PPP) nói chung, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 13856/VPCP-CN ngày 28/12/2017 và văn bản số 120/VPCP-CN ngày 04/01/2018, Bộ GTVT đang phối hợp với các bô, ngành liên quan hoàn thiện việc rà soát tổng thể về vị trí đặt trạm, chính sách miễn giảm giá tại tất cả các trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ và quản lý doanh thu chặt chẽ để có những giải pháp đồng bộ bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan; đồng thời đang chỉ đạo xây dựng tiêu chí thành lập trạm thu giá dịch vụ, xây dựng mức giá phù hợp, áp dụng công nghệ tiên tiến thu giá theo hình thức tự động không dừng báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi ban hành.
- Về một số tuyến đường chỉ sửa chữa cũng lập trạm thu giá:
Thực tế, trong những năm qua, nguồn vốn Ngân sách nhà nước rất hạn hẹp luôn không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư đồng bộ hạ tầng giao thông. Trong điều kiện nhiều tuyến quốc lộ xuống cấp nghiêm trọng, trên cơ sở kiến nghị của địa phương, Bộ GTVT đều đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ và xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương trước khi triển khai đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT. Việc triển khai các dự án đầu tư nâng cấp mặt đường; cải tạo, mở rộng một đoạn quốc lộ hiện hữu là hoàn toàn phù hợp với lĩnh vực Chính phủ khuyến khích đầu tư tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CP (khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP “Chính phủ khuyến khích thực hiện các dự án xây dựng và vận hành quản lý công trình kết cấu hạ tầng mới hoặc dự án cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa và vận hành, quản lý các công trình hiện có...”). Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, các phương tiện ô tô đang được sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông mà không phải trả giá dịch vụ sẽ không còn sự lựa chọn miễn giá vé. Điều này cũng có thể nói quy định của pháp luật chưa lường hết được tác động đối với các đối tượng ảnh hưởng.
Thực hiện chủ trương của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017, Bộ GTVT đang chỉ đạo rà soát, lựa chọn đầu tư các dự án giao thông theo thứ tự ưu tiên phù hợp với từng hình thức đầu tư dựa trên lợi thế, đặc điểm của từng vùng cũng như tính cấp thiết, liên thông trong cả hệ thống quy hoạch hệ thống giao thông. Đối với các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để đảm bảo quyền lựa chọn của người dân, không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu. Do vậy, trong thời gian tới, việc tiếp tục thực hiện nâng cấp, sửa chữa các tuyến quốc lộ hiện hữu sẽ được sử dụng vốn từ nguồn ngân sách hoặc quỹ bảo trì đường bộ.
47. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ GTVT xem xét di dời trạm thu giá BOT QL1 tuyến tránh thành phố Biên Hòa, xã Trung Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, nhằm tránh tình trạng phản ứng của các chủ phương tiện giao thông khi đi qua trạm thu giá (nhưng không đi trên tuyến đường tránh thành phố Biên Hòa) đã gây ùn tắc giao thông và mất an ninh trật tự tại khu vực này.
Trả lời: Tại công văn số 791/BGTVT-ĐTCT ngày 23/01/2018
- Về vị trí trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ tại Km1841+912 QL1:
Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ phí, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì ban hành các Thông tư số 90/2004/TT-BTC (nay được thay thế bằng Thông tư số 159/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính), trong đó có quy định việc đặt trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ, cụ thể: (1) Đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định.
Ngày 29/7/2005, Thủ tướng Chính phủ có văn bản số 1059/TTg-CN cho phép đầu tư xây dựng Quốc lộ 1 đoạn tránh thành phố Biên Hòa theo hình thức hợp đồng BOT. Theo đó, về vị trí trạm thu phí giao UBND tỉnh Đồng Nai thống nhất với Bộ GTVT, Bộ Tài chính trong giai đoạn lập và phê duyệt dự án (Giai đoạn này tỉnh Đồng Nai được Thủ tướng giao làm cơ quan Nhà nước có thẩm quyền). Năm 2006, UBND tỉnh Đồng Nai ủy quyền cho Sở GTVT tỉnh Đồng Nai làm đại diện Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết Hợp đồng dự án và đề nghị Cục Đường bộ Việt Nam thống nhất xây dựng mới trạm thu giá tại vị trí Km1841+912 QL1 thuộc ấp Bàu Cá, xã Trung Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để thu giá hoàn vốn cho Dự án. Cục Đường bộ Việt Nam đã có văn bản số 2412/CĐBVN-ĐT ngày 14/03/2007 thống nhất lập trạm thu phí tại Km1841+912; Bộ Tài chính có văn bản số 3495/BTC-ĐT ngày 14/03/2007 gửi Thủ tướng Chính phủ thống nhất thành lập trạm thu phí tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để hoàn vốn cho Dự án.
Năm 2008, Thủ tướng Chính phủ chuyển cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về Bộ GTVT tại văn bản số 385/TTG-CN ngày 18/3/2008, để khẳng định vị trí trạm thu giá tại Km1841 QL1 thuộc ấp Bàu Cá, xã Trung Hòa, huyện Trảnh Bom, tỉnh Đồng Nai (cách Trạm Sông Phan 117Km, cách trạm An Sương - An Lạc 73 Km) để hoàn vốn cho Dự án, Bộ GTVT đã có văn bản lấy ý kiến và được sự thống nhất của UBND tỉnh Đồng Nai tại văn bản số 5001/UBND-CNN ngày 26/6/2008, Bộ Tài chính tại văn bản số 16349/BTC-HCNS ngày 17/11/2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư số 39/BKH-GCNĐTTN cũng thống nhất xác định vị trí trạm thu phí hoàn vốn cho dự án tại Km1841+912 QL1.
Như vậy, việc triển khai dự án tuân thủ pháp luật, chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, trạm thu giá dự án được được UBND tỉnh Đồng Nai xác định trước khi chuyển cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyển về Bộ GTVT, nằm trong phạm vi dự án và nhận được sự đồng thuận của Bộ Tài chính.
- Về việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ tại trạm thu giá dịch Km1841+912 QL1:
Trong quá trình tổ chức thu giá dịch vụ đã xảy ra phản ứng của một số tài xế tại trạm thu giá. Qua đánh giá, nguyên nhân chính là hình thức thu giá hở chưa đảm bảo tuyệt đối công bằng cho người sử dụng (do quốc lộ thường có nhiều đường ngang và lối ra, vào các khu dân cư) và hình thức này có hạn chế là chỉ có thể đảm bảo tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm thu giá đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả trong khi đó những người đi quãng đường dài 40÷50 km ở khoảng cách giữa hai trạm thu giá thì vẫn không phải trả). Đồng thời, chính sách giá chỉ miễn giảm cho xe máy, xe thô sơ và một số xe chuyên dùng mà không miễn giá cho các phương tiện của các hộ dân sinh sống trong khu vực lân cận trạm.
Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, Bộ GTVT và các Nhà đầu tư BOT đã giảm giá đối với xe loại 4 (xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit) từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 (xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit) từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng tại trạm thu giá. Ngoài ra, để khắc phục bất cập trong chính sách giá dịch vụ, trên cơ sở ý kiến đề xuất của tỉnh Đồng Nai, Tổng cục Đường bộ Việt Nam và Nhà đầu tư, Bộ GTVT đã chấp thuận chủ trương giảm giá đối với các phương tiện qua trạm thu giá tại văn bản số 11320 /BGTVT-ĐTCT ngày 05/10/2017 và văn bản số 718/BGTVT-ĐTCT ngày 22/11/2017 như sau: (1) Giảm 20% giá chung đối với tất cả các loại vé qua trạm thu giá Km1841+912; (2) Giảm giá cho các phương tiện quanh trạm thu giá (giảm 100% các loại xe buýt, các phương tiện của chủ sở hữu có hộ khẩu thường trú tại địa bàn giảm giá, các xe đưa rước công nhân, học sinh, các phương tiện của các hợp tác xã hoạt động vận tải xe buýt). Hiện, Tổng cục ĐBVN, Nhà đầu tư đã phối hợp với địa phương để giảm giá theo quy định.
- Về việc di dời trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ:
Theo nghiên cứu của Tư vấn và báo cáo của Nhà đầu tư về doanh thu thu giá thực tế của dự án, lưu lượng phương tiện qua trạm đang thấp hơn so với phương án tài chính trong hợp đồng BOT, nếu di dời trạm thu giá dịch Km1841+912 QL1 đến vị trí mới (vị trí tuyến tránh) sẽ phải xây dựng lại trạm thu giá, Nhà điều hành mới sẽ gây lãng phí chi phí đầu tư, thời gian thu giá sẽ tiếp tục kéo dài, người sử dụng lại tiếp tục phải trả giá dịch vụ khi qua trạm và phá vỡ phương án tài chính, nguồn vốn vay sẽ thành nợ xấu của Ngân hàng, Ngân hàng không đồng thuận và không cho vay vốn để di dời trạm. Do vậy, trường hợp di dời trạm có thể Nhà nước sẽ phải mua lại dự án BOT trong điều kiện hiện nay thì chưa thể thực hiện được do ngân sách nhà nước hạn hẹp, không nằm trong kế hoạch đầu tư trung hạn 2016-2020. Do vậy, để thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng, Bộ GTVT rất mong Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai, địa phương trong khu vực chia sẻ khó khăn chung của đất nước và đồng thuận với chủ trương xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông.
48. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên hiện có 5 trạm thu giá, đoạn từ Bình Phước đến thành phố Hồ Chí Minh cũng có 05 trạm. So với các tuyến đường khác thì đây là tuyến có nhiều trạm BOT nhất, từ đó làm tăng chi phí vận tải của doanh nghiệp, dẫn đến làm tăng giá thành sản phẩm. Đề nghị UBTV Quốc hội, Chính phủ cần xem xét mua lại các trạm BOT đoạn qua Tây Nguyên để tạo động lực thu hút đầu tư vào Tây Nguyên.
Trả lời: Tại công văn số 533/BGTVT-ĐTCT ngày 16/01/2018
Đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên, dài khoảng 663 km đi qua 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Bình Phước. Đây là tuyến đường có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Do vậy, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã ưu tiên nguồn lực để đầu tư nâng cấp, mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng các tỉnh Tây Nguyên. Tuy nhiên, thực tế trong những năm vừa qua, nguồn vốn Ngân sách nhà nước phân bổ cho Bộ GTVT rất hạn hẹp luôn không đủ nguồn vốn đối ứng nên không thể cân đối để đầu tư đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên đồng bộ hạ tầng giao thông phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Đứng trước nhu cầu cấp bách về phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chủ trương “thu hút mạnh các thành phần kinh tế, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, bảo đảm lợi ích thoả đáng của nhà đầu tư; mở rộng hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm…; có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng...” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Nghị quyết số 13-NQ/TW, Bộ GTVT đã phối hợp với các địa phương, Bộ ngành kêu gọi đầu tư 5 dự án theo hình thức Hợp đồng BOT (Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông là Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 01 dự án và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình phước là Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 03 dự án). Tuy nhiên, do không đảm bảo được khoảng cách giữa các trạm thu phí theo quy định tại Thông tư số 90/2004/TT-BTC ngày 07/9/2004 của Bộ Tài chính nên Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chuyển đổi 02 dự án BOT đoạn Cây Chanh - Cầu 38 và đoạn Đồng Xoài - Chơn Thành sang đầu tư bằng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, xóa bớt 02 trạm thu phí trên địa phận tỉnh Bình Phước để phù hợp quy định.
Được sự đồng thuận của các địa phương, các Bộ ngành và chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã và đang triển khai 70 dự án BOT, trong đó có 72 trạm thu giá trên tuyến quốc lộ (Tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên hiện có 5 trạm thu giá), 11 trạm thu giá thu cho các tuyến đường cao tốc (thu kín theo số km đường phương tiện sử dụng). Riêng đoạn từ Bình Phước đến thành phố Hồ Chí Minh có 05 trạm thu giá cơ bản do Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định vị trí trạm thu giá.
Trong quá trình lập dự án đầu tư, Bộ GTVT đã chỉ đạo tính toán hiệu quả kinh tế cho từng dự án. Theo tính toán của tư vấn, sau khi tuyến đường được đầu tư nâng cấp thì lợi ích mang lại do tiết kiệm rút ngắn được thời gian vận tải hàng hóa và hành khách, tiết kiệm nhiên liệu, khấu hao phương tiện, lợi ích mang lại cho người sử dụng lớn hơn so với mức giá người sử dụng phải đóng, chưa kể lợi ích mang lại do giảm thiểu tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, để giảm thiểu ảnh hưởng đến người dân xung quanh khu vực trạm thu giá, trong phương án thu giá, không thu giá đối với xe máy, xe thô sơ (là phương tiện chủ yếu của đại đa số người dân) và có bao gồm việc bán vé tháng, vé quý (Ví dụ: Đoạn từ Plei Ku - Cầu 110, tỉnh Gia Lai lợi ích mang lại khoảng 244 tỷ đồng/năm, trong khi doanh thu thu phí khoảng 167 tỷ đồng/năm và giảm khoảng 37% thời gian đi lại; đoạn qua tỉnh Đắk Nông lợi ích mang lại khoảng 104 tỷ đồng/năm, doanh thu thu phí khoảng 79 tỷ đồng/năm và giảm khoảng 25% thời gian đi lại).
Qua phân tích ở trên, việc đầu tư phát triển các dự án hạ tầng giao thông theo hình thức BOT không có tác động xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng Tây Nguyên, mà ngược lại, lợi ích do việc sử dụng hạ tầng được đầu tư, nâng cấp mang lại lợi ích lớn hơn so với chi phí mà người sử dụng sẽ phải bỏ ra để sử dụng hạ tầng đó. Ngoài ra, trong điều kiện nguồn lực đầu tư công khó khăn như hiện nay, việc phát triển các dự án hạ tầng theo hình thức BOT là phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng.
Đối với nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ được quyết định theo Luật đầu tư công, đến thời điểm hiện nay Quốc hội chưa có chủ trương cho phép phát hành bổ sung. Đối với nguồn vốn Ngân sách, hàng năm Bộ GTVT được phân bổ chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu đầu tư. Do vậy, việc Nhà nước mua lại các trạm BOT nói chung và các dự án BOT đoạn qua Tây Nguyên nói riêng trong điều kiện hiện nay thì chưa thể thực hiện được do ngân sách nhà nước hạn hẹp, không nằm trong kế hoạch đầu tư trung hạn 2016-2020 đã được Quốc hội phê chuẩn.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều nước có điều kiện phát triển kinh tế và khả năng nguồn lực tương tự Việt Nam (Ma-lai-xi-a, Phi lip pin, Thái Lan, Chi Lê…), phát triển hơn (Ấn Độ, Úc, Mỹ, Anh, Hàn Quốc…), để đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông nguồn lực đầu tư cũng không thể đáp ứng và vẫn phải sử dụng hình thức đầu tư BOT và hoàn vốn từ nguồn thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ.
Để thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng, Bộ GTVT rất mong Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk, các địa phương trong khu vực chia sẻ khó khăn chung của đất nước và đồng thuận với chủ trương xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông.
49. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Tiếp tục xem xét lại các điểm đặt trạm BOT (các trạm đặt BOT ở huyện Tây Sơn, thị xã An Nhơn) vì điểm đặt chưa hợp lý về khoảng cách theo quy định; giảm mức phí, đồng thời có chính sách miễn, giảm phí qua trạm BOT của các địa phương liền kề hằng ngày phải đi qua trạm thu phí, góp phần giảm chi phí vận tải. Bộ GTVT chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá tổng mức đầu tư, mức phí và thời gian thu phí các dự án, công trình giao thông đầu tư theo hình thức BOT. Đồng thời xử lý nghiêm minh các vi phạm, chống tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện các dự án BOT.
Trả lời: Tại công văn số 647/BGTVT-ĐTCT ngày 19/01/2018
Theo quy định tại các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính về khoảng cách giữa các trạm thu phí BOT như sau: (1) Đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định. Như vậy, pháp luật không quy định về khoảng cách tối thiểu bắt buộc phải đảm bảo giữa các trạm thu phí (nội dung này cũng đã được Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ văn tại văn bản số 1157/BTC-CST ngày 20/10/2017).
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Định bố trí 03 trạm thu giá, gồm 02 trạm trên Quốc lộ 1 tại Km1148+1300 và trạm Km1212+550, 01 trạm trên Quốc lộ 19 tại Km49+055. Trong quá trình xây dựng các trạm thu giá nêu trên, Bộ GTVT đã thực hiện đúng quy định (cả 03 vị trí trạm trên đều có ý kiến đồng thuận của UBND tỉnh Bình Định và Bộ Tài chính về vị trí đặt trạm).
2. Về việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ tại 03 trạm trên địa bàn tỉnh Bình Định: Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, Bộ GTVT và các Nhà đầu tư BOT đã giảm giá đối với xe loại 4 (xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit) từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 (xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit) từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng tại 02 trạm thu giá trên địa bàn tỉnh Bình Định. Trên cơ sở số liệu chi phí đầu tư thực tế sau thanh tra, kiểm toán, đề xuất của UBND tỉnh Bình Định, Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các Nhà đầu tư, Bộ GTVT đã miễn giảm giá đối với các phương tiện qua 03 trạm này như sau: (1) Giảm giá cho các phương tiện quanh 03 trạm thu giá (giảm giá 50% cho các phương tiện loại 1 (không kinh doanh) có đăng ký tại một số xã, huyện quanh 02 trạm thu giá); (2) đã giảm giá chung cho các phương tiện qua trạm thu giá Km1212+550 (mỗi loại xe giảm 5.000 đồng/lượt). Mức giá và thời gian thu giá thường xuyên được cập nhật, kiểm soát trên cơ sở lưu lượng xe thực tế.
3. Về nội dung Bộ GTVT chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá tổng mức đầu tư, mức phí và thời gian thu phí các dự án, công trình giao thông đầu tư theo hình thức BOT. Đồng thời xử lý nghiêm minh các vi phạm, chống tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện các dự án BOT
Ngày 06/9/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 84/NQ-CP chỉ đạo Bộ GTVT chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá tổng mức đầu tư, mức phí và thời gian thu phí các dự án, công trình giao thông đầu tư theo hình thức BOT.
Theo quy trình triển khai thực hiện các dự án BOT, Bộ GTVT đã lấy ý kiến của Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương về các vấn đề liên quan như chủ trương đầu tư, quy mô, hướng tuyến, vị trí trạm và mức thu phí, nội dung Hợp đồng dự án. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 06/9/2017 về việc “Giao Bộ GTVT chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá tổng mức đầu tư, mức phí và thời gian thu phí các dự án, công trình giao thông đầu tư theo hình thức BOT”, Bộ GTVT đã tiến hành rà soát, đánh giá tổng mức đầu tư, trực tiếp thoả thuận giá trị quyết toán giá trị xây dựng cho từng dự án, mức phí và thời gian thu phí các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức Hợp đồng BOT. Đồng thời, Bộ GTVT đã có văn bản đề nghị các địa phương rà soát các bất cập tại các dự án BOT trên địa bàn và đề xuất các giải pháp xử lý. Sau khi có đầy đủ ý kiến của các địa phương, Bộ GTVT sẽ chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá tổng mức đầu tư, mức phí và thời gian thu phí các dự án, công trình giao thông đầu tư theo hình thức BOT, trên cơ sở đó sẽ tiếp tục báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kiến nghị các giải pháp xử lý đảm bảo hài hoà lợi ích các bên, tuân thủ quy định pháp luật.
Năm 2017, thực hiện kế hoạch giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đoàn giám sát của Quốc hội đã thực hiện trong 7 tháng đối với các dự án đầu tư theo hình thức BOT do Bộ GTVT quản lý. Ngoài ra, trong giai đoạn vừa qua, các cơ quan chức như Thanh tra Chính phủ, thanh tra các bộ, ngành và Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành thanh kiểm tra các dự án đầu tư theo hình thức BOT do Bộ GTVT quản lý. Đến nay, đã có 108 kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán (trong đó 8 dự án Thanh tra Chính phủ đã thanh tra, 17 dự án thanh tra Bộ KHĐT thanh tra, 30 dự án thanh tra Bộ GTVT thanh tra, 52 dự án KTNN kiểm toán, 01 dự án Thanh tra Bộ Xây dựng thanh tra). Trên cơ sở kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan đơn vị có liên quan nghiêm túc tiếp thu, kiểm điểm và xử lý các tập thể, cá nhân liên quan theo quy định pháp luật.
50. Cử tri các tỉnh Phú Yên, Bình Phước, Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri đánh giá cao chủ trương của Nhà nước về việc triển khai đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cử tri bức xúc và phản ánh về việc phê duyệt, đầu tư, quản lý và vận hành các trạm BOT giao thông còn nhiều bất cập. Nhiều người dân thể hiện thái độ không đồng tình trước việc đặt các trạm thu phí quá dày, mức phí quá cao, không hợp lý; nhiều dự án chỉ nâng cấp, mở rộng công trình hiện hữu, dẫn đến người dân không còn sự lựa chọn, bắt buộc phải đi vào đường BOT; nhiều dự án BOT giao thông còn thiếu công khai, minh bạch, đa số là chỉ định thầu; hệ thống hành lang pháp lý chưa rõ ràng, công tác quản lý Nhà nước về dự án BOT còn bộc lộ nhiều hạn chế, gây lãng phí và thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước; công tác quản lý, nghiệm thu, giám sát, chất lượng của một số dự án còn chưa tốt; người dân vẫn phải trả phí cho một số đoạn đường BOT xuống cấp sau một thời gian ngắn đưa vào vận hành khai thác. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải và chính quyền các địa phương khẩn trương thực hiện rà soát, thanh tra, kiểm tra và chấn chỉnh hoạt động của các dự án BOT giao thông; bảo đảm công khai, minh bạch trong đầu tư, hoạt động; nâng cao chất lượng quản lý nhà nước; khẩn trương đồng bộ hóa và áp dụng công nghệ thông tin trong thu phí để giảm thất thoát và tránh ùn tắc; nghiên cứu xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của Nhân dân trong quá trình triển khai thực hiện các dự án BOT giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 648/BGTVT-ĐTCT ngày 19/01/2018
Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ phí, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì ban hành các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC, trong đó có quy định việc đặt trạm thu giá, cụ thể: (1) Đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định.
Trong quá trình thực hiện, trình tự, thủ tục liên quan đến việc xác định vị trí trạm thu giá được Bộ GTVT thực hiện đúng quy định pháp luật: Tư vấn khảo sát hiện trường dự kiến vị trí trạm thu giá và thỏa thuận với địa phương; Bộ GTVT lấy ý kiến của các địa phương (có nhiều trạm thu giá nhận được sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội) và Bộ Tài chính.
Các dự án BOT do Bộ GTVT quản lý chủ yếu kêu gọi đầu tư trong giai đoạn từ 2010 - 2014, giai đoạn này việc lựa chọn Nhà đầu tư chịu sự điều chỉnh bởi Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT, BTO và BT. Theo quy định tại Nghị định này, có 2 hình thức lựa chọn nhà đầu tư là chỉ định thầu và đấu thầu, cụ thể:
Các dự án BOT do Bộ GTVT quản lý, chủ yếu được chỉ định thầu do:
- Đối với các dự án khác: Đều thuộc diện đăng tải trong vòng 30 ngày để kêu gọi đầu tư, nhưng đều chỉ có 1 nhà đầu tư đăng ký.
Như vậy, quá trình triển khai các dự án có thể nói các thông tin đều minh bạch theo quy định, được các bộ, ngành và địa phương tham gia ý kiến trước khi Bộ Giao thông vận tải ký hợp đồng chính thức với nhà đầu tư và triển khai dự án. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, mặc dù thực hiện đúng quy định pháp luật nhưng còn có nhiều dự án thực hiện theo hình thức chỉ định thầu, thông tin chưa đến được người dân và các tố chức xã hội do hình thức tuyên truyền, công bố thông tin chưa thực sự hiệu quả hoặc người dân chưa quan tâm đến thông tin công bố nên còn có quan điếm khác nhau về tính công khai, minh bạch trong việc lựa chọn nhà đầu tư BOT.
Từ tháng 9/2016, để tăng cường tính công khai, minh bạch, thuận tiện cho người dân và các tổ chức chính trị - xã hội giám sát, Bộ GTVT đã đưa vào hoạt động chính thức trang thông tin điện tử công bố thông tin chi tiết về các dự án PPP tại địa chỉ ppp.mt.sov.vn (thông tin về dự án, tổng vốn đầu tư, đơn vị thực hiện, thời gian thực hiện, mức phí, thời gian thu phí...).
Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri về việc hành lang pháp lý chưa rõ ràng, còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Văn bản quy phạm pháp luật cao nhất điều chỉnh hình thức BOT mới dừng lại mức nghị định nên tính ổn định của chính sách không cao. Hình thức đầu tư BOT chịu sự điều chỉnh của nhiều luật nên còn có sự chồng chéo, chưa thống nhất. Để khắc phục tình trạng này, hiện nay Chính phủ đang giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng Luật Đối tác công tư để trình Quốc hội ban hành.
Thực tế với vai trò Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Bộ GTVT cũng chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình tổ chức thực hiện, đồng thời Bộ Giao thông vận tải đã chủ động có văn bản số 4771/BGTVT-TC ngày 28/4/2014 đề nghị Kiểm toán Nhà nước hỗ trợ kiểm toán các dự án BOT để kịp thời chấn chỉnh các tồn tại ngay trong quá trình thi công, tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót, gây thiệt hại cho Nhà nước trong quá trình thi công công trình.
Tính đến thời điểm này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã triển khai nhiều cuộc thanh tra, kiêm toán đối với các dự án BOT, BT như: Thanh tra Chính phủ đã có kết luận 08 dự án, Thanh tra Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có kết luận 14 dự án, Thanh tra Bộ GTVT đã có kết luận 30 dự án, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán 47 dự án, Thanh tra Bộ Xây dựng có kết luận 01 dự án. Đồng thời, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã giám sát trong hơn 07 tháng đối với các dự an BOT do Bộ GTVT là CQNNCTQ và đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ- UBTVQH14 ngày 21/10/2017.
'Tại kết luận của các đoàn thanh tra, kiếm toán và đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều khắng định tính đúng đắn của chủ trương kêu gọi đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức đối tác công tư trong điều kiện nguồn lực ngân sách hạn hẹp, chỉ ra một số tồn tại trong quá trình thực hiện đầu tir các dự án BOT trong thời gian vừa qua nhưng không phát hiện có tham nhùng, lãng phí hoặc sai phạm trong quyết định chủ trương đầu tư, vị trí trạm thu giá.
Đối với các tồn tại sai sót thuộc chủ quan, Bộ GTVT đã nghiêm túc tiếp thu, rút kinh nghiệm và đã cập nhật điều chỉnh các sai sót theo ý kiến kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán. Đồng thời, Bộ GTVT đã yêu cầu các tập thể, cá nhân có liên quan nghiêm túc rút kinh nghiệm, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân để xử lý theo quy định.
Theo quy định của pháp luật về xây dựng (Luật xây dựng, Điều 31 Nghị định số 108/2009/NĐ-CP và Điều 47 Nghị định số 15/2015/NĐ-CP) thì Doanh nghiệp dự' án và nhà đầu tư chịu trách nhiệm về chất lượng công trình dự án không chỉ trong thời gian xây dụng mà cả thời gian vận hành khai thác. Thực hiện vai trò giám sát và trách nhiệm quản lý ngành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong quá trình thực hiện đầu tư, Bộ GTVT luôn quán triệt và chỉ đạo nâng cao vai trò quản lý nhà nước, thường xuyên giám sát việc tuân thủ các nghĩa vụ của nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án theo quy định tại hợp đồng dự án. Tuv nhiên, thực tế trong quá trình thực hiện vẫn có một số dự án sau khi đưa vào khai thác có chất lượng chưa tốt. Đối với các dự án này, Nhà đầu tư phải có trách nhiệm khắc phục đảm bảo chất lượng khai thác của dự án theo quy định trong Họp đồng, trường họp Nhà đầu tư không khắc phục, Bộ GTVT sẽ xem xét việc dừng thu giá tại dự án.
Trong quá trình triển khai các dự án BOT, Bộ GTVT xác định việc kiểm tra, quản lý đối với các trạm thu giá là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của CQNNCTQ trong quá trình thực hiện, vận hành, khai thác dự án đầu tư theo hình thức BOT. Do vậy, Bộ GTVT đã giao cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (đơn vị có kinh nghiệm trong việc quản lý, vận hành các dự án đường bộ) có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc tổ chức thu phí và doanh thu thu phí như: (i) theo dõi, kiểm tra doanh thu thu phí; (ii) công tác tổ chức thu phí; (iii) có biện pháp chống thất thoát doanh thu; (iv) được quyền tạm đình chỉ, dừng thu phí khi Nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án vi phạm.
Đe quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch công tác thu phí, Bộ GTVT đã xây dựng, ban hành Thông tư 49/2016/TT-BGTVT ngày 30/12/2016 quy định về xây dựng, tổ chức và hoạt động của trạm thu phí sử dụng đường bộ, theo đó dữ liệu cua hệ thống quản lý thu bao gồm: các tập tin cơ sở dữ liệu, các tập tin hình ảnh chụp phương tiện lưu thông qua trạm, các tập tin hình ảnh liên tục giám sát làn phải được sao lưu dưới dạng tập dữ liệu và lưu giữ tối thiểu 05 năm. Các tập tin hình ảnh giám sát cabin và giám sát toàn cảnh phải được sao lưu dưới dạng tập dữ liệu và lưu giữ tối thiểu 01 năm.
Đồng thời, Bộ GTVT đang triển khai hệ thống thu giá tự động không dừng ở các trạm thu giá BOT. Hiện nay, đã vận hành thương mại được 15 trạm, đã lắp đặt xong, chuẩn bị vận hành 10 trạm. Dự kiến sẽ triển khai áp dụng tại toàn bộ các trạm trên quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên trong năm 2018 và áp dụng trên toàn quốc trong năm 2019. Ngoài ra, Bộ GTVT đang giao cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam lập dự án đầu tư hệ thống giám sát trực tuyến tại tất cả các trạm.
Với các giải pháp đồng bộ này, việc kiểm soát doanh thu sẽ đảm bảo chặt chẽ, minh bạch, tốc độ lưu thông qua các trạm thu phí sẽ được cải thiện.
Bộ GTVT ghi nhận ý kiến đề xuất của cử tri về việc cần thiết phải nghiên cứu xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân trong quá trình triển khai thực hiện các dự án BOT giao thông, Bộ GTVT sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền nghiên cứu xem xét.
51. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Theo quy định hiện hành, mức vốn tối thiểu của doanh nghiệp khi đầu tư vào dự án giao thông theo hình thức BOT chỉ cần tối thiểu là 20% tổng số vốn dự toán, số còn lại phải đi vay và việc trả lãi vay do người tham gia giao thông trả. Cử tri cho rằng quy định như trên là bất cập. Để nâng cao năng lực tài chính của chủ đầu tư và hạn chế tình trạng người dân phải trả nhiều lãi vay thay cho doanh nghiệp, cử tri đề nghị Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan sửa đổi nội dung quy định trên theo hướng các doanh nghiệp đầu tư vào dự án giao thông theo hình thức BOT phải đảm bảo nguồn vốn từ 50% trở lên so với tổng số vốn dự toán cho mỗi dự án.
Trả lời: Tại công văn số 730/BGTVT-ĐTCT ngày 22/01/2018
Tiếp thu ý kiến cử tri cũng như phản ánh của dư luận trong thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, trong đó có điều chỉnh quy định về tỷ lệ vốn chủ sở hữu yêu cầu. Việc nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu càng cao sẽ càng nâng cao yêu cầu về năng lực tài chính nhà đầu tư và dự án càng khả thi về huy động vốn tín dụng, tuy nhiên sẽ dẫn đến tăng chi phí vốn đầu tư (tức là tổng chi phí người dân phải trả lớn hơn) do tỷ suất lợi nhuận đối với vốn chủ sở hữu thường cao hơn lãi suất vay ngân hàng. Do vậy, dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 15/2015/NĐ-CPdự kiến nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu yêu cầu thêm khoảng 5% (thành 10÷20% tổng vốn đầu tư).
Kiến nghị của cử tri tỉnh Ninh Thuận tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư đạt tối thiểu 50% là quá lớn, sẽ làm tăng tổng chi phí người dân phải trả và đặc biệt là khó có doanh nghiệp trong nước đáp ứng yêu cầu này. Tuy nhiên,khi tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, nhà đầu tư có thể đề xuất nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu nhưng không được làm tăng thời gian hoàn vốn đầu tư dự án, không được làm tăng tổng chi phí người dân phải trả.
52. Cử tri tỉnh Ninh Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ GTVT, Ban Quản lý dự án đường Hồ Chí Minh điều chỉnh lại vị trí cọc mốc giải phóng mặt bằng Km0-Km2 tuyến Quốc lộ 12B thuộc dự án xây dựng Quốc lộ 12B đoạn Tam Điệp - Nho Quan theo đúng quy định của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ đảm bảo phạm vi giải phóng mặt bằng tính từ mép ngoài rãnh dọc ra 2,0m.
Trả lời: Tại công văn số 699/BGTVT-CQLXD ngày 19/01/2018
Tại Quyết định số 2798/QĐ-BGTVT ngày 05/9/2016, Bộ GTVT đã phê duyệt thiết kế BVTC Dự án đầu tư xây dựng Quốc lộ 12B đoạn Tam Điệp - Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, trong đó đoạn Km0 - Km2 có chiều rộng mặt cắt ngang là 18m gồm: mặt đường rộng 14m, mỗi bên 2m vỉa hè (trên vỉa hè bố trí rãnh thoát nước dọc chữ U chiều rộng B = 0,9m có nắp đậy nằm sát bó vỉa). Phạm vi giải phóng mặt bằng (GPMB) đoạn tuyến Km0 - Km2 khoảng 9,5m - 10m tính từ tim tuyến ra mỗi bên (khoảng cách giữa 2 cọc GPMB trái tuyến và phải tuyến khoảng 19m - 20m); khoảng cách từ mép ngoài rãnh dọc đến cọc GPMB là 1,34m.
Trong quá trình thực hiện dự án, do nhu cầu phải bố trí mặt bằng để di dời công trình hạ tầng kỹ thuật ra khỏi phạm vi mặt đường, tại Văn bản số 12985/BGTVT-CQLXD ngày 17/11/2017 Bộ Giao thông vận tải đã cho phép bổ sung phạm vi GPMB mỗi bên 01m. Như vậy, hiện tại trên đoạn tuyến Km0 - Km2 khoảng cách từ mép ngoài rãnh dọc đến cọc GPMB mới là 2,34m, phù hợp với quy định tại Điều 14 Nghị định 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ.
53. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Theo hướng dẫn của Cục Đăng kiểm Việt Nam (tại văn bản số 3997/ĐKVN-VAR ngày 29/08/2016), về việc xác định niên hạn sử dụng của xe ô tô và xác định căn cứ theo thứ tự ưu tiên (Số VIN, số khung xe, các tài liệu kỹ thuật, thông tin nhãn mác, hồ sơ lưu trữ). Trên thực tế, hầu hết các xe ô tô mang biển kiểm soát Lào nhập cảnh vào Việt Nam đều không xuất trình được tài liệu kỹ thuật, hồ sơ lưu trữ, giấy tờ xe không ghi năm sản xuất, trong khi mỗi hãng xe có số VIN, số khung khác nhau; do đó việc kiểm tra các xe mang biển số Lào, quá niên hạn của một số dòng xe gặp khó khăn. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải (Cục Đăng kiểm Việt Nam) hướng dẫn kiểm tra niên hạn cụ thể từng dòng xe, hãng xe để cơ quan hải quan có cơ sở thực hiện theo quy định.
Trả lời: Tại công văn số 453/BGTVT-KHCN ngày 15/01/2018
Việc xác định năm sản xuất của ô tô mang biển kiểm soát Lào trong hoạt động vận tải liên vận Lào - Việt được quy định tại Điều 7 Thông tư số 21/2010/TT-BGTVT ngày 10/08/2010 của Bộ Giao thông vận tải về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 95/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 của Chính phủ quy định niên hạn sử dụng đối với xe ô tô chở hàng và xe ô tô chở người, cụ thể như sau:
Niên hạn sử dụng được tính theo năm, kể từ năm sản xuất của ô tô và xác định theo thứ tự ưu tiên sau đây: Số nhận dạng của xe - số VIN; Số khung của xe; Các tài liệu kỹ thuật; Thông tin trên nhãn mác của Nhà sản xuất; Hồ sơ lưu trữ: Giấy chứng nhận chất lượng; Phiếu kiểm tra chất lượng xuất xưởng đối với ô tô sản xuất tại Việt Nam; Biên bản kiểm tra hoặc nghiệm thu, Giấy chứng nhận chất lượng phương tiện cơ giới đường bộ cải tạo đối với ô tô cải tạo; Hồ sơ gốc do cơ quan công an quản lý; Chứng từ nhập khẩu.
Hiện nay theo quy ước quốc tế, ký tự thứ 10 từ trái sang phải của dãy số VIN thể hiện năm sản xuất theo quy ước chi tiết dưới đây:
Năm sản xuất L: là năm 1990
Căn cứ vào bảng trên cơ quan Hải quan có thể xác định được năm sản xuất phần lớn các phương tiện xin nhập cảnh vào Việt Nam. Trường hợp những xe cơ quan Hải quan không thể xác định được năm sản xuất, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo các đơn vị Đăng kiểm tại địa phương phối hợp cùng cơ quan Hải quan xác định niên hạn đối với từng phương tiện cụ thể.
54. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Việc xây dựng tuyến đường Xuyên Á về Cảng Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị từ năm 1995 làm một số hộ dân của xã Gio Mai, Gio Quang, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị có nhà ở trong vùng hành lang bảo vệ đường bộ của con đường này rất bức xúc vì nhà cửa sau nhiều năm sử dụng bị xuống cấp, hư hỏng; khi người dân tiến hành việc sửa chữa thì không được phép của Thanh tra giao thông vì lý do vi phạm các quy định về hành lang an toàn đường bộ của Luật Giao thông đường bộ; Trong khi đó, “nhà dân ở trước, đường làm sau” và việc cắm mốc chỉ giới hành lang an toàn đường bộ cũng thực hiện sau; phần diện tích đất ở của dân trong hành lang an toàn này không được đền bù, giải tỏa. Đề nghị Bộ GTVT xem xét, giải quyết, tháo gỡ bất cập và vướng mắc trên cho nhân dân.
Trả lời: Tại công văn số 528/BGTVT-KCHT ngày 16/01/2018
Trên một số tuyến quốc lộ, hiện, nay đang tồn tại một số công trình nhà ở, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có sử dụng đất hành lang an toàn đường bộ. Việc tồn tại các công trình này đã được quy định tại Khoản 4 Điều 43 Luật Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12 ngày 13/11/2008 “Người đang sử dụng đất được pháp luật thừa nhận mà đất đó nằm trong hành lang an toàn đường bộ thì được tiếp tục sử dụng đất theo đúng mục đích đã được xác định và không được gây cản trở cho việc bảo vệ an toàn công trình đường bộ” và Khoản 2 Điều 24 Nghị định 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ “Những công trình xét thấy chưa ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định của công trình đường bộ và an toàn giao thông đường bộ thì trước mắt cho phép giữ nguyên hiện trạng nhưng chủ công trình phải cam kết không cơi nới và thực hiện dỡ bỏ công trình khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền”.
Thực tế trong quá trình sử dụng, nhiều công trình bị xuống cấp, hư hỏng mất an toàn và gây khó khăn cho cuộc sống của nhân dân. Để tránh bức xúc cho người dân và tạo điều kiện cho người dân ổn định cuộc sống trong khi nhà nước chưa bố trí được kinh phí để giải phóng mặt bằng, Bộ Giao thông vận tải đã quy định tại Khoản 3 Điều 29 Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-GP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ: “Công trình nhà ở, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có sử dụng đất hành lang an toàn đường bộ nhưng chưa ảnh hưởng đến an toàn giao thông, an toàn công trình đường bộ được tạm thời tồn tại nhưng phải giữ nguyên hiện trạng không được cơi nới, mở rộng; người sử dụng đất phải ký cam kết với Ủy ban nhân dân cấp xã và đơn vị trực tiếp quản lý tuyến đường về việc không cơi nới, mở rộng. Trường hợp công trình bị xuống cấp, chưa được nhà nước đền bù, giải tỏa và người sử dụng có nhu cầu để sử dụng, Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan quản lý tuyến đường kiểm kê đất, tài sản trên đất để có cơ sở đền bù hoặc thống nhất phương án sửa chữa”.
Đối với tồn tại ở tuyến đường Xuyên Á (Quốc lộ 9), Bộ Giao thông vận tải đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị chỉ đạo các cấp chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động người dân thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ hành lang an toàn đường bộ và hướng dẫn người dân thực hiện theo quy định tại Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 của Bộ Giao thông vận tải để ổn định cuộc sống.
55. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Thực hiện triển khai Quyết định số 1906/QĐ-BGTVT ngày 20/5/2014 của Bộ GTVT về Đề án xây dựng 186 cầu treo dân sinh đảm bảo an toàn giao thông vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Công ty Cổ phần 465 được Ban Quản lý dự án 3 (Tổng cục đường bộ Việt Nam) giao nhiệm vụ thi công 10 cầu tại 4 huyện trên địa bàn tỉnh Nghệ An, gồm: Thanh Chương, Con Cuông, Tân Kỳ, Tương Dương. Công trình đã hoàn thành năm 2015, nhưng đến nay Công ty vẫn chưa được thanh toán số tiền nợ 20,553 tỷ đồng (Hai mươi tỷ, năm trăm năm mươi ba triệu đồng). Đề nghị Bộ GTVT xem xét và sớm giải quyết để giảm khó khăn cho Doanh nghiệp.
Trả lời: Tại công văn số 830/BGTVT- KHĐT ngày 23/01/2018
Với tinh thần cùng chung tay giúp sức để đồng bào vùng dân tộc thiểu số sớm không còn cảnh bị cô lập khi mùa lũ về, đáp ứng nhu cầu đi lại an toàn cho bà con và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội khu vực vùng sâu, vùng xa, Bộ GTVT đã có quyết định số 1906/QĐ-BGTVT ngày 20/5/2014 phê duyệt Đề án xây dựng cầu treo dân sinh đảm bảo an toàn giao thông trên địa bàn 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên (Đề án) với tổng mức đầu tư 931,7 tỷ đồng.
Đề án đã được giao kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 là 837 tỷ đồng (trong đó hoàn ứng trước kế hoạch 400 tỷ đồng), đã bố trí kế hoạch từ đầu dự án đến hết năm 2017 là 220 tỷ đồng (trong đó hoàn ứng trước 100 tỷ đồng), riêng năm 2017 kế hoạch được giao 120 tỷ đồng, đến nay đã cơ bản giải ngân hết.
Trên cơ sở thông báo số dự kiến kế hoạch năm 2018 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ GTVT đã đăng kí kế hoạch 2018 của Đề án là 460 tỷ đồng (trong đó hoàn ứng trước kế hoạch 300 tỷ đồng). Sau khi có Quyết định giao kế hoạch đầu tư công năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ GTVT sẽ khẩn trương thông báo cho các Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án đơn vị khẩn trương thực hiện theo quy định.
Đồng thời, để giảm bớt khó khăn về tài chính cho các nhà thầu, sau khi Đề án cơ bản giải ngân hết kế hoạch 2018 được giao, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho ứng trước kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 cho Đề án.
Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam làm việc với Công ty cổ phần 465 để kiểm tra, rà soát các số liệu liên quan và thanh toán cho nhà thầu theo quy định sau khi Đề án được giao kế hoạch đầu tư công năm 2018 (hoặc ứng trước kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020).
56. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải và các Bộ, ngành liên quan và Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) sớm tháo gỡ các vướng mắc và giải quyết dứt điểm việc bàn giao dự án hệ thống kho cảng tổng hợp, container và hệ thống kho cảng hàng lỏng tại Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà (gọi tắt là Dự án cảng biển Hải Hà) từ Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) nay là Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 2214/TTg-KTN ngày 30/11/2011 (việc bàn giao đã kéo dài 6 năm) làm mất cơ hội thu hút đầu tư phát triển cảng biển Hải Hà theo quy hoạch và gây lãng phí tài sản nhà nước; để dự án sớm được triển khai phát huy hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của Khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà, phát triển KTXH của địa phương, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh và cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo giải quyết.
Trả lời: Tại công văn số 660/BGTVT-QLDN ngày 19/01/2018
1. Quy hoạch Dự án Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà
Theo Quy hoạch chi tiết, Khu bến Hải Hà thuộc Nhóm cảng biển số 1, là khu bến tổng hợp, chuyên dùng, công ten nơ và hàng lỏng. Khu bến gồm bến thuộc Khu công nghiệp Hải Hà và bến Cái Chiên. Dự kiến phát triển cho tàu có trọng tải từ 30.000 đến 80.000 tấn, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa của Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, Khu cửa khẩu Bắc Phong Sinh, Khu cửa khẩu Hoành Mô- Đồng Văn và các cơ sở công nghiệp tại Khu công nghiệp - cảng biển Hải Hà. Phát triển theo nhu cầu và năng lực đầu tư của các nhà đầu tư vào Khu công nghiệp - cảng biển Hải Hà.
Ngày 08/3/2007, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (nay là Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy) có Quyết định số 572/QĐ-CNT-KHĐT quyết định cho phép chuẩn bị đầu tư Dự án san lấp giai đoạn 1, Khu kinh tế Hải Hà và đường công vụ khởi công nhà máy đóng tàu Hải Hà với tổng mức đầu tư 945 tỷ đồng và giao cho Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy Cái Lân làm chủ đầu tư.
Ngày 30/3/2009, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển Khu kinh tế Hải Hà có Quyết định số 17/QĐ-HĐQT quyết định cho phép chuẩn bị đầu tư Xây dựng cơ sở hạ tầng giai đoạn 1, Khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà với tổng mức đầu tư 2.217 tỷ đồng và do chính Công ty làm chủ đầu tư.
2. Tình hình chuyển giao Dự án Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 2214/TTg-KTN ngày 30/11/2011 về Dự án khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà, trong đó, về việc tiếp nhận dự án, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến: “Nhà đầu tư tiếp nhận Dự án có trách nhiệm thống nhất và bồi hoàn chi phí hợp pháp đã đầu tư cho Vinashin”. Triển khai ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy đã phối hợp với nhà đầu tư Công ty cổ phần Tập đoàn Indevco để thực hiện các thủ tục chuyển giao dự án. Tuy nhiên, do còn nhiều vướng mắc nên các bên chưa thống nhất được giá trị bồi hoàn. Ngày 14/01/2014, Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy đã có Công văn số 118/CNT-TCKT báo cáo Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải về các nội dung liên quan đến việc chuyển giao Dự án khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà.
Ngày 29/1/2014, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 791/VPCP-KTTH về việc chuyển giao Dự án khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà, trong đó đề nghị: “Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo xử lý theo quy định hiện hành. Trong trường hợp vượt thẩm quyền, đề nghị Bộ Giao thông vận tải thống nhất với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan có liên quan đề xuất biện pháp xử lý, báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định”.
Ngày 07/5/2014, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ninh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy, Công ty cổ phần Tập đoàn Indevco và các đơn vị có liên quan tổ chức cuộc họp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuyển giao Dự án. Tại cuộc họp, các thành viên tham dự thống nhất đề nghị Bộ Giao thông vận tải báo cáo Phó Thủ tướng những nội dung sau:
Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) và Công ty cổ phần Tập đoàn Indevco là bên tiếp nhận Dự án đã thống nhất thuê Công ty TNHH Tư vấn tài chính kế toán và Kiểm toán Việt Nam (AAFC) thẩm định hồ sơ pháp lý và chi phí hợp pháp đã đầu tư cho Dự án. Ngày 12/6/2013, AAFC đã ra Báo cáo thẩm định số 274/2013/BCTĐXD-AAFC, theo đó ghi nhận số liệu thống kê theo hồ sơ, chứng từ là 263,9 tỷ đồng, nhưng chỉ có 6,38 tỷ đồng là đầy đủ hồ sơ theo quy định. Ngày 09/12/2013, sau khi SBIC cung cấp thêm tài liệu, AAFC đã ra dự thảo Báo cáo ghi nhận thêm 9,58 tỷ đồng. Do chênh lệch quá lớn nên ngày 23/12/2013, SBIC đã thuê Công ty TNHH Kiểm toán An Phú tiến hành kiểm toán lại và đã có dự thảo báo cáo ghi nhận chi phí thực tế đã đầu tư vào dự án là 259,5 tỷ đồng. Như vậy cả hai đơn vị thẩm định đều ghi nhận chi phí thực tế đã đầu tư vào dự án thể hiện tại hồ sơ, chứng từ tương đối như nhau, tuy nhiên do thiếu trình tự thủ tục pháp lý về triển khai dự án nên chỉ được ghi nhận 15,96 tỷ đồng chi phí hợp pháp đã đầu tư vào dự án.
Dự án khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà được Vinashin, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam và Tổng công ty Sông Đà (đều là các doanh nghiệp nhà nước) góp vốn đầu tư, theo báo cáo của SBIC tính đến nay, chủ đầu tư đã tạm ứng cho nhà thầu 110 tỷ đồng và khoảng 14 tỷ đồng chi phí quản lý dự án và chi phí khác. Như vậy, nếu nhà đầu tư Công ty cổ phần Tập đoàn Indevco chỉ bồi hoàn 15,96 tỷ đồng chi phí đã đầu tư vào dự án sẽ dẫn đến Nhà nước không thu hồi đủ nguồn vốn đã đầu tư. Mặt khác, theo báo cáo kết quả rà soát 238 dự án của Vinashin, hầu hết các dự án đều có tình trạng thiếu thủ tục pháp lý như Dự án này, nếu không có cơ chế riêng cho các dự án của SBIC, việc chuyển giao, chuyển nhượng hoặc bán các dự án sẽ rất khó khăn do không hoàn thiện được hồ sơ dự án, không đủ cơ sở thanh toán các chi phí, trong đó có phần vốn Nhà nước đã đầu tư vào doanh nghiệp.
Nhằm đẩy nhanh lộ trình tái cơ cấu, chuyển nhượng các dự án, thu hồi vốn đầu tư, tập trung nguồn lực tài chính cho tái cơ cấu, Bộ Giao thông vận tải đã có Công văn số 5236/BGTVT-QLDN ngày 12/05/2014 báo cáo Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải và kính đề nghị Phó Thủ tướng cho phép việc chuyển giao dự án được thực hiện như sau:
“1. Đối với phần chi phí đầu tư 15,96 tỷ đồng đã có đủ thủ tục pháp lý, nhà đầu tư Indevco thực hiện việc chuyển trả ngay cho SBIC, sau khi Indevco chuyển trả kinh phí, SBIC thực hiện bàn giao tạm thời dự án cho Indevco để tiếp tục thực hiện đầu tư.
2. Đối với chi phí đầu tư chưa đủ thủ tục pháp lý, giao SBIC chỉ định một đơn vị thẩm định giá có đầy đủ năng lực, tư cách pháp nhân tiến hành thẩm định lại giá trị tài sản thực tế đã đầu tư vào dự án. Trên cơ sở số liệu thẩm định của đơn vị thẩm định giá, Indevco sẽ bồi hoàn lại cho SBIC toàn bộ chi phí đã đầu tư vào dự án theo giá trị mà đơn vị thẩm định đã định giá. SBIC sẽ bàn giao chính thức toàn bộ dự án cho Indevco”.
Ngày 04/02/2016, Văn phòng chính phủ có Công văn số 913a/VPCP-KTTH thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về việc bàn giao Dự án Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà, theo đó Phó Thủ tướng chỉ đạo: “Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, đề xuất phương án giải quyết một lần, cả gói vấn đề trên, báo cáo Thủ tướng Chính phủ”.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, ngày 30/3/2016, Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức cuộc họp giữa các bên có liên quan gồm: UBND tỉnh Quảng Ninh, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy, Công ty cổ phần Tập đoàn Indevco và cơ quan có liên quan để thống nhất giải quyết những vướng mắc trong việc chuyển giao Dự án khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà từ Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) về Công ty cổ phần Tập đoàn Indevco (Indevco) và đã có Thông báo kết luận số 158/TB-BGTVT ngày 01/4/2016 của Bộ Giao thông vận tải, theo đó các bên dự họp đã thống nhất các nội dung sau:
“1. Theo báo cáo của SBIC tại cuộc họp, SBIC đã cung cấp bình đồ 1/500, bản đồ hiện trạng trước khi triển khai thi công dự án cho Ban quản lý Dự án khu công nghiệp - Cảng biển Hải Hà, đủ cơ sở để xác định khối lượng thực tế đã thi công, Bộ Giao thông vận tải yêu cầu SBIC báo cáo Bộ và UBND tỉnh Quảng Ninh bằng văn bản kèm theo Biên bản bàn giao tài liệu giữa SBIC và Ban quản lý dự án trước ngày 10/4/2016 để Bộ xem xét giải quyết các bước tiếp theo.
2. Sau khi nhận được báo cáo của SBIC, Bộ Giao thông vận tải sẽ có công văn báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận:
- Cho phép SBIC thống nhất với Indevco thuê đơn vị tư vấn khảo sát, xác định khối lượng thực tế đã thi công của dự án, đơn giá, giá trị các hạng mục đã thi công tại thời điểm tư vấn hoàn thành việc xác định khối lượng làm cơ sở để xác định giá trị chuyển giao dự án.
- Giá trị chuyển nhượng dự án bao gồm: Giá trị thực tế đã đầu tư vào dự án (chi phí trực tiếp và gián tiếp) do Tư vấn xác định theo khối lượng thực tế đã thi công; chi phí tư vấn thẩm định giá, tư vấn xác định giá trị thực tế đã đầu tư của dự án để phục vụ chuyển giao dự án.
- Indevco được phép hạch toán chi phí nhận chuyển nhượng dự án vào chi phí đầu tư của dự án.
- Thời gian chuyển nhượng dự án: sau khi SBIC và Indevco thống nhất được giá trị chuyển giao, Indevco hoàn trả chi phí đã đầu tư của dự án cho SBIC”.
Ngày 20/4/2016, Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy có Công văn số 734/CNT-TCCĐT báo cáo về việc thực hiện Thông báo kết luận số 158/TB-BGTVT ngày 01/4/2016 của Bộ Giao thông vận tải, theo đó, SBIC báo cáo đã cung cấp tài liệu đủ cơ sở để xác định khối lượng thực tế đã thi công cho Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh theo Biên bản bàn giao ngày 23/7/2015 và Biên bản ngày 30/3/2016.
Ngày 27/4/2016, Bộ Giao thông vận tải đã có Công văn số 4702/BGTVT-QLDN kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ chấp thuận:
“- Cho phép SBIC thống nhất với Indevco thuê đơn vị tư vấn khảo sát, xác định khối lượng thực tế đã thi công của dự án, đơn giá, giá trị các hạng mục đã thi công tại thời điểm tư vấn hoàn thành việc xác định khối lượng làm cơ sở để xác định giá trị chuyển giao dự án.
- Giá trị chuyển nhượng dự án bao gồm: Giá trị thực tế đã đầu tư vào dự án do Tư vấn xác định theo quy định của pháp luật hiện hành, chi phí tư vấn thẩm định giá, tư vấn xác định giá trị thực tế đã đầu tư của dự án.
- Indevco được phép hạch toán chi phí nhận chuyển nhượng dự án vào chi phí đầu tư của dự án.
- Thời gian chuyển nhượng dự án: sau khi SBIC và Indevco thống nhất được giá trị chuyển giao, Indevco hoàn trả chi phí đã đầu tư của dự án cho SBIC”.
Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang chờ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải sẽ chỉ đạo SBIC phối hợp với các bên liên quan hoàn tất thủ tục chuyển giao dự án.
57. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Cử tri Hưng Yên yêu cầu tiếp tục làm rõ việc nâng mức thu phí cầu Yên Lệnh từ 10.000 đồng/lượt lên 35.000 đồng/lượt đối với xe con; từ 10.000 đồng/lượt lên 40.000 đồng/lượt đối với xe con tại trạm thu phí Quốc lộ 5 thuộc Thị trấn Như Quỳnh – Văn Lâm – Hưng Yên.
Trả lời: Tại công văn số 523/BGTVT-ĐTCT ngày 16/01/2018
Về mức giá phí BOT: Trước năm 2013, mức phí BOT được quy định tại Thông tư 90/2004/TT-BTC, khi đó mức thu tối đa 20.000đ/cpu/lượt, mức thu này được quy định tại thời điểm năm 2004 với thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam ở mức 500 USD và đến 2011 đã tăng đến khoảng 1300 USD tương đương với 2,6 lần (Nguồn: Fulbrigth Vietnam). Trong khi giá các dịch vụ thiết yếu (điện, xăng dầu...), chi phí xây dựng, thu nhập bình quân đầu người đều tăng, mức thu phí phí đường bộ ban hành từ năm 2004 đến năm 2013 vẫn chưa thay đổi. Điều này làm cho các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đường bộ có hiệu quả tài chính rất thấp, không thu hút đầu tư được dự án mới.
Để phù hợp với thực tế, tại Thông báo số 373/TB-VPCP ngày 08/11/2012 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo“đồng ý về chủ trương điều chỉnh tăng mức thu phí đường bộ như đề nghị của Bộ GTVT, nhưng cần có lộ trình tăng từ nay đến năm 2016 đạt mức khoảng 3,5 lần so với mức giá cơ bản tại Thông tư 90/2004/TT-BTC”. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 159/2013/TT-BTC thay thế Thông tư 90/2004/TT-BTC trước đây, trong đó mức thu tối đa từ năm 2014 là 38.000đ/cpu, năm 2015 là 45.000đ/cpu và kể từ năm 2016 là 52.000đ/cpu.
- Đối với dự án đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng: Do dự án có tổng mức đầu tư lớn, khoảng 45.487 tỷ đồng, nguồn thu thông qua thu phí (nay là giá dịch vụ đường bộ) không thể hoàn vốn, do đó Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ để đảm bảo khả thi về tài chính. Trên cơ sở đề xuất của Ngân hàng phát triển Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính cho phép thu phí trên Quốc lộ 5 (Quyết định 1621/QĐ-TTg ngày 29/11/2007). Theo tính toán mức phí 10.000 đồng/lượt (đối với xe Nhóm 1) không đảm bảo khả thi về tài chính của dự án, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 153/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 theo đó mức phí trên Quốc lộ 5, cụ thể trước ngày 31/3/2016 là 30.000 đồng/lượt, từ 01/4/2016 là 45.000 đồng/lượt (từ 20/11/2016 giảm về 40.000 đồng/lượt theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp).
- Đối với dự án cầu Yên Lệnh: Để đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân và an toàn khai thác, trên cơ sở đề xuất của địa phương và Bộ GTVT, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bổ sung dự án QL38 đoạn từ cầu Yên Lệnh đến nút giao Vực Vòng vào dự án cầu Yên Lệnh cũ và sử dụng trạm thu phí cầu Yên Lệnh đang thu phí để hoàn vốn đầu tư tại văn bản số 1811/TTg-KTN ngày 19/9/2014. Mức phí mới (35.000 đồng/lượt đối với xe Nhóm 1) được áp dụng để đảm bảo tính khả thi của toàn dự án, mức phí này cũng đã được Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 123/2016/TT-BTC ngày 22/7/2016.
58. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ GTVT đề nghị Chủ đầu tư trạm thu phí Cai Lậy tỉnh Tiền Giang dời trạm thu phí qua đường tránh Cai Lậy. Vì cho rằng đặt trạm ở đường Quốc lộ 1 là không hợp lý gây bức xúc cho đối tượng chịu ảnh hưởng.
Trả lời: Tại công văn số 422/BGTVT-ĐTCT ngày 15/01/2018
Từ năm 2009, trên cơ sở quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT cho phép lập dự án đầu tư tuyến tránh thị trấn Cai Lậy. Cục Đường bộ Việt Nam (nay là Tổng cục ĐBVN) là Chủ đầu tư đã lựa chọn tư vấn và tổ chức lập dự án đầu tư. Do không cân đối được nguồn vốn nên tạm dừng.
Trên cơ sở nội dung làm việc giữa Lãnh đạo UBND tỉnh Tiền Giang với Bộ GTVT, kiến nghị của UBND tỉnh Tiền Giang về hình thức đầu tư và giới thiệu nhà đầu tư BOT (văn bản số 3901/UBND-CN ngày 30/8/2013), Bộ GTVT đã nghiên cứu các phương án đầu tư và báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 9947/BGTVT-ĐTCT ngày 20/9/2013. Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chủ trương đầu tư dự án tuyến tránh Cai Lậy theo hình thức hợp đồng BOT tại văn bản số 1908/TTg-KTN ngày 11/11/2013. Triển khai ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN, tư vấn, phối hợp với địa phương nghiên cứu, hoàn chỉnh dự án đầu tư. Do mặt đường QL1 đã xuống cấp, nguồn vốn bảo trì không được dùng để đầu tư cải tạo theo quy định tại Nghị định 18/2012/NĐ-CPcủa Chính phủ, Bộ GTVT và địa phương đã thống nhất cần thiết phải đầu tư tăng cường mặt đường QL1.
Trong quá trình nghiên cứu, tư vấn đã xem xét 2 phương án: Phương án 1- tăng cường mặt đường QL1 và mở rộng QL1 đoạn qua thị xã Cai Lậy lên 6 làn xe; phương án này có kinh phí đầu tư lớn (khoảng 2.000 tỷ đồng), giảiphóng mặt bằng nhiều và phức tạp, chưa phù hợp với quy hoạch của địa phương, các phương tiện vẫn đi qua trung tâm thị xã Cai Lậy với tốc độ chậm, không giải quyết được ùn tắc trung tâm thị xã Cai Lậy. Phương án 2- tăng cường mặt đường QL1 và đầu tư đoạn tuyến tránh thị xã Cai Lậy (phương án đầu tư hiện nay); phương án này có tổng mức đầu tư nhỏ hơn (khoảng gần 1.400 tỷ đồng), khối lượng giải phóng mặt bằng ít hơn, các phương tiện tránh thị xã Cai Lậy lưu thông với vận tốc lớn hơn, phù hợp với quy hoạch và phát triển thị xã Cai Lậy. Cả hai phương án đều đáp ứng nhu cầu vận tải. Phương án 2 được chọn để tiếp tục nghiên cứu chi tiết vì hiệu quả nhiều hơn. Trong quá trình nghiên cứu tiếp theo, Bộ GTVT đã tiếp tục chỉ đạo tính toán phương án đặt trạm thu giá dịch vụ trên tuyến tránh và phương án đặt trên QL1 hiện tại. Đối với phương án đặt trạm trên tuyến tránh và chỉ đầu tư riêng tuyến tránh cũng không thể khả thi về tài chính do các phương tiện sẽ sử dụng tuyến hiện hữu qua thị xã Cai Lậy và không thể kêu gọi được nhà đầu tư.
Bộ GTVT có văn bản lấy ý kiến UBND, HĐND và Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang kèm theo chi tiết kết quả phân tích, so sánh các phương án đặt trạm thu giá trên tuyến tránh và trên QL1 hiện hữu. Phương án đặt Trạm Cai Lậy trên QL1 hiện nay đã nhận được ý kiến đồng thuận của UBND tỉnh Tiền Giang, HĐND tỉnh Tiền Giang và Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang; Đoàn ĐBQH kiến nghị rõ kết hợp tăng cường mặt đường qua Cai Lậy.
Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc đầu tư xây dựng dự án theo hình thức BOT bao gồm cả xây dựng tuyến tránh và tăng cường mặt đường QL1 hiện hữu tại văn bản số 13450/BGTVT-ĐTCT ngày 10/12/2013 về việc xin phép áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư. Ngày 15/01/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến tại văn bản số 97/TTg-KTN đồng ý chỉ định nhà đầu tư.
Việc đầu tư cải tạo, tăng cường mặt đường, các cầu yếu trên đoạn tuyến phù hợp với lĩnh vực khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 108/2009/NĐ-CP của Chính phủ: “Chính phủ khuyến khích thực hiện các dự án xây dựng và vận hành quản lý công trình kết cấu hạ tầng mới hoặc dự án cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa và vận hành, quản lý các công trình hiện có...”; được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bằng văn bản; được các cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phương có ý kiến đồng thuận.Bộ GTVT đã phê duyệt đầu tư dự án bao gồm 12,1km tuyến tránh thị xã Cai Lậy và 26,4km tăng cường mặt đường đoạn qua xã Cai Lậy tại Quyết định số 4173/QĐ-BGTVT ngày 19/12/2013.
- Về quá trình lựa chọn vị trí đặt trạm thu giá Cai Lậy
Khi nghiên cứu triển khai dự án, Tư vấn đã khảo sát xác định vị trí đặt trạm để có vị trí phù hợp, giảm thiểu GPMB, ít ảnh hưởng đến dân cư, sau đó làm việc với địa phương và tính toán, phân tích, so sánh các phương án đặt trạm (trên tuyến tránh và trên QL1 tại Km1999+900). Vị trí trạm hoàn vốn dự án dự kiến đặt tại Km1999+900, trên QL1 đảm bảo khoảng cách lớn hơn 70km đến 02 trạm gần nhất trên QL1 là trạm An Sương - An Lạc và trạm Cần Thơ - Phụng Hiệp. Để có được sự thống nhất về vị trí trạm, Bộ GTVT đã có các văn bản lấy ý kiến địa phương: (i) Văn bản số 11547/BGTVT-ĐTCT ngày 28/10/2013 gửi Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang và nhận được ý kiến đồng thuận tại văn bản số 379/ĐBQH-VP ngày 06/11/2013; (ii) Văn bản số 11548/BGTVT-ĐTCT ngày 28/10/2013 gửi HĐND tỉnh Tiền Giang và nhận được ý kiến đồng thuận tại văn bản số 44/HĐND-KTNS ngày 04/11/2013; (iii) Văn bản số 11549/BGTVT-ĐTCT ngày 28/10/2013 gửi UBND tỉnh Tiền Giang và nhận được ý kiến đồng thuận tại văn bản số 5090/UBND-CN ngày 04/11/2013.
Khi triển khai đầu tư, để thuận lợi hơn trong công tác GPMB, UBND tỉnh Tiền Giang có văn bản số 4717/UBND-KTN ngày 02/10/2015 kiến nghị Bộ GTVT dịch chuyển trạm thu phí về Km1999+300, QL1 (dịch 600m về phía đầu tuyến). Vị trí mới vẫn nằm trên QL1, đảm bảo nằm trong phạm vi dự án và khoảng cách tới các trạm lân cận; Bộ GTVT có văn bản số 14245/BGTVT-TC ngày 26/10/2015 thoả thuận điều chỉnh vị trí đặt trạm thu phí và được Bộ Tài chính có ý kiến tại văn bản số 17593/BTC-HCSN ngày 26/11/2015, giao Bộ GTVT xem xét, quyết định.
Như vậy, việc đặt trạm Cai Lậy tại vị trí hiện nay là tuân thủ quy định pháp luật (theo quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính, Bộ GTVT quyết định đặt trạm thu phí khi đảm bảo cự ly 70km). Trạm Cai Lậy nằm trong phạm vi dự án (Trạm đặt tại Km1999+300 và phạm vi dự án từ Km1987+560 đến Km2014), cách trạm An Sương - An Lạc và trạm Cần Thơ - Phụng Hiệp >70km nên thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ GTVT. Để tăng thêm tính công khai, minh bạch, Bộ GTVT đã lấy ý kiến và nhận được sự đồng thuận của Bộ Tài chính; UBND, HĐND, Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang (cơ quan đại diện cho nhân dân).
- Về kiến nghị di dời trạm Cai Lậy của cử tri
Như đã báo cáo ở trên, trong quá trình nghiên cứu dự án, Bộ GTVT đã chỉ đạo tư vấn và tiến hành so sánh các phương án đầu tư, phương án đặt trạm để lựa chọn phương án tối ưu, được sự đồng thuận của các cơ quan đại diện cho người dân tại địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thu giá dịch vụ tại trạm Cai Lậy có nảy sinh vấn đề phức tạp, một số người sử dụng có những phản ứng về vị trí đặt trạm, mức giá tại trạm... Bộ GTVT đã tiếp thu và đàm phán với nhà đầu tư để giảm giá chung cho các phương tiện qua trạm, đồng thời giảm giá vé cho các phương tiện có chủ sở hữu hộ khẩu thường trú khu vực gần trạm Cai Lậy.
Hiện nay, Bộ GTVT đang tiếp tục nghiên cứu các phương án để xử lý tình huống phát sinh trong quá trình thu giá dịch vụ tại trạm Cai Lậy theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp ngày 04/12/2017. Phương án chính thức sẽ được Bộ GTVT báo cáo trong thời gian tới. Sau khi Thủ tướng Chính phủ quyết định phương án, Bộ GTVT sẽ tổ chức họp báo để thông tin chính thức.
59. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri phản ánh, tình trạng lấn chiếm lòng lề đường của các công trình giao thông không có biển báo an toàn giao thông, vật tư thi công để ngổn ngang gây cản trở lưu thông và là nguyên nhân gây ra nhiều vụ tại nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng. Đề nghị thời gian tới cần quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm quản lý của ngành giao thông, nhà đầu tư, nhà thầu thi công… nếu để xảy ra tai nạn giao thông trên tuyến đường nói trên.
Trả lời: Tại công văn số 662/BGTVT-KCHT ngày 19/01/2018
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, hoạt động đầu tư xây dựng công trình giao thông ngày càng phát triển về số lượng, đa dạng về loại công trình, nhiều công trình có quy mô, kỹ thuật phức tạp. Công tác quản lý an toàn lao động, đảm bảo giao thông trong quá trình thi công mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn còn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông có liên quan đến các công trình đang thi công.
Trước tình hình nêu trên, Bộ Giao thông vận tải đã nghiên cứu, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trình cấp có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý an toàn giao thông trong xây dựng công trình như:
- Về Luật: Luật Xây dựng năm 2014; Luật giao thông đường bộ 2008;
- Về Nghị định: Nghị định 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng; Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 về quản lý dự án đầu tư xây dựng; Văn bản hợp nhất số 04/VBHN-BGTVT ngày 29/7/2016 hợp nhất các Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010, Nghị định số 100/2013/NĐ-CP ngày 03/9/2013 và Nghị định số 64/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ;
- Văn bản hợp nhất số 16/VBHN-BGTVT ngày 30/11/2017 hợp nhất các Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 và Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT ngày 09 tháng 10 năm 2017 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ;
- Chỉ thị số 23/CT-BGTVT ngày 11/11/2014 của Bộ Giao thông vận tải về việc tăng cường công tác đảm bảo an toàn giao thông, an toàn lao động, vệ sinh môi trường trong quá trình triển khai thi công các dự án, công trình giao thông;
- Tiêu chuẩn cơ sở TCCS 14:2016/TCĐBVN: Tiêu chuẩn về tổ chức giao thông và bố trí phòng hộ khi thi công trên đường bộ đang khai thác;Và một số văn bản pháp lý khác có liên quan.
Ngoài các nguyên nhân khách quan, còn có nguyên nhân từ việc thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện các quy định về đảm bảo an toàn giao thông, an toàn lao động, vệ sinh môi trường trong quá trình thi công của các chủ thể tham gia.
Để đảm bảo an toàn giao thông, an toàn lao động, vệ sinh môi trường và hạn chế tối đa các tai nạn xảy ra trong quá trình thi công các dự án công trình giao thông, Bộ Giao thông vận tải đã yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan nghiêm túc thực hiện các quy định nói trên và quy định của pháp luật hiện hành về đảm bảo an toàn giao thông, an toàn lao động, vệ sinh môi trường. Trong đó phải nghiêm túc thực hiện một số nội dung quan trọng sau:
- Các cơ quan được giao trực tiếp quản lý tuyến quốc lộ (Tổng cục Đường bộ Việt Nam, các Sở Giao thông vận tải) và các đơn vị có liên quan kiểm tra, rà soát giấy phép thi công và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các quy định đã được nêu trong thỏa thuận thi công và các quy định của Văn bản hợp nhất số 16/VBHN-BGTVT ngày 30/11/2017. Đồng thời, Tổng cục Đường bộ Việt Nam, các Sở Giao thông vận tải phối hợp với Chính quyền địa phương triển khai thực hiện công tác lập lại trật tự hành lang đường bộ, giải tỏa cây cối, lều quán, biển quảng cáo, pa nô, băng rôn, dây điện lắp đặt trái phép và ngăn chặn tình trạng trồng cây, lắp dựng chướng ngại vật trong phạm vi tầm nhìn nhằm đảm bảo an toàn giao thông.
- Các Chủ đầu tư, Nhà đầu tư, Ban Quản lý dự án rà soát lại công tác tổ chức thi công, kịp thời chấn chỉnh và chỉ đạo Tư vấn giám sát, Nhà thầu về công tác đảm bảo an toàn giao thông, an toàn lao động, vệ sinh môi trường trong suốt quá trình thực hiện dự án, đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành và các chỉ đạo của Bộ Giao thông vận tải.
- Yêu cầu các đơn vị thi công bổ sung đầy đủ các biển báo về an toàn giao thông, an toàn lao động, vệ sinh môi trường, bố trí đầy đủ các biện pháp che chắn khi thi công, tránh để vật liệu rơi vãi làm ảnh hưởng đến người tham gia giao thông và nhân dân sống ở hai bên đường. Rà soát, kiểm tra toàn bộ hệ thống thiết bị thi công, biện pháp tổ chức thi công chi tiết từng hạng mục của dự án, đặc biệt quan tâm đến các dự án vừa thi công vừa đảm bảo giao thông qua khu đô thị, dân cư, cần có thêm các biển cảnh báo từ xa, người điều khiển giao thông qua phạm vi công trường liên tục trong suốt thời gian thi công (phối hợp với công an giao thông và các cơ quan chức năng của địa phương để thực hiện).
- Đối với các công trình có yêu cầu về kỹ thuật đặc biệt, điều kiện thi công phức tạp (như thi công các công trình trên cao, các cầu vượt đường bộ, công trình đường sắt trên cao qua khu đô thị, khu vực đông dân cư): Yêu cầu Nhà thầu phải xây dựng và phê duyệt theo quy định phương án đảm bảo an toàn khi thi công từng hạng mục xây lắp như: cẩu lắp kết cấu, vật liệu, vận chuyển và lao dầm… Phải bố trí nhân lực, thiết bị làm công tác đảm bảo, điều tiết giao thông, đặc biệt phải có giải pháp khắc phục, bố trí đầy đủ hệ thống che chắn như rào chắn, lưới đỡ… để giảm thiểu nguy cơ mất an toàn giao thông, an toàn lao động trong trường hợp rơi vãi vật liệu hoặc có sự cố khi cẩu lắp trong suốt quá trình thi công.
Các Chủ đầu tư, Nhà đầu tư, Ban Quản lý dự án, Nhà thầu phải xây dựng bộ phận chuyên trách về quản lý an toàn giao thông, an toàn lao động, vệ sinh môi trường để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, thường xuyên đôn đốc các chủ thể tham gia thi công đảm bảo tuyệt đối an toàn.
Dự kiến lộ trình giải quyết và thời điểm giải quyết xong: Để đảm bảo an toàn giao thông, Bộ Giao thông vận tải tiếp tục hoàn thiện các quy định, chế tài nghiêm khắc, mạnh mẽ hơn nữa, rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm quản lý ngành giao thông, nhà đầu tư, nhà thầu thi công v.v... nếu xẩy ra tai nạn giao thông trên tuyến đường.
60. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Hiện nay do điều kiện kinh tế phát triển nên nhu cầu học lái xe ô tô của người dân tăng cao, nhiều cơ sở đào tạo lái xe cơ giới đường bộ và các trung tâm sát hạch lái xe cơ giới đường bộ được thành lập nhưng quy mô nhỏ và chất lượng thấp, đội ngũ giáo viên, nhất là giáo viên thực hành còn hạn chế về trình độ nghiệp vụ, thiếu sự cập nhật kiến thức mới... dẫn đến chất lượng đào tạo yếu kém. Bên cạnh đó vấn nạn “cò” môi giới thi lấy bằng lái, không cần học lý thuyết, đến ngày thi, học viên chỉ làm bài cho có lệ và vượt qua phần thi sa hình là đã có bằng lái ôtô. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều lái xe gây tại nạn như hiện nay. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành chức năng tăng cường kiểm tra, xử lý và chấn chỉnh.
Trả lời: Tại công văn số 794/BGTVT-TCCB ngày 23/01/2018
Thời gian qua, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các Sở Giao thông vận tải tăng cường các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và quản lý chặt chẽ công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, cụ thể:
1. Từ năm 2016, đã tăng thêm bài sát hạch ghép xe ngang vào nơi đỗ hạng B1, B2. Sử dụng thiết bị chấm điểm tự động để sát hạch lái xe trên 2 km đường giao thông công cộng. Sát hạch lý thuyết trên máy vi tính, công khai quá trình và kết quả sát hạch lý thuyết trên màn hình đặt tại phòng Hội đồng và phòng chờ sát hạch của thí sinh để mọi người theo dõi giám sát, đảm bảo tính khách quan về kết quả sát hạch lái xe.
2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe, kịp thời phát hiện các sai phạm để chấn chỉnh, xử lý đối với các cơ sở đào tạo cũng như cơ quan quản lý sát hạch, cấp giấy phép lái xe. Hàng năm, Bộ Giao thông vận tải và Tổng cục Đường bộ Việt Nam đều tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra các Sở Giao thông vận tải và cơ sở đào tạo, trung tâm sát hạch lái xe; tùy mức độ vi phạm sẽ xử phạt vi phạm hành chính và đình chỉ đào tạo, sát hạch theo Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Bộ Giao thông vận tải đã có quy định cụ thể về trách nhiệm và xử lý vi phạm trong công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe tại Thông tư số 06/2012/TT-BGTVT ngày 08/3/2012, trong đó giao nhiệm vụ cho các cơ quan liên quan của Bộ Giao thông vận tải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; Sở Giao thông vận tải chủ trì phối hợp các cơ quan liên quan tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát công tác đào tạo, sát hạch lái xe đối với các cơ sở đào tạo, trung tâm sát hạch do Sở quản lý, xử lý vi phạm theo quy định.
3. Năm 2017, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới, tư vấn đường bộ Australia (VICROAD) đánh giá công tác đào tạo, sát hạch và quản lý giấy phép lái xe của Việt Nam. Sau khi đánh giá, Tổ chức Y tế thế giới, tư vấn đường bộ Australia (VICROAD) đã đưa ra một số khuyến nghị để thực hiện trong thời gian tới nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo, sát hạch và quản lý giấy phép lái xe của Việt Nam.
4. Để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về đào tạo, sát hạch và quản lý giấy phép lái xe, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam xây dựng Đề án “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng đào tạo, sát hạch và quản lý giấy phép lái xe để góp phần đảm bảo an toàn giao thông”, và sẽ tổ chức thực hiện trong thời gian tới.
61. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ nghiên cứu, bổ sung các quy định về mối quan hệ giữa Bộ Giao thông vận tải, chủ đầu tư và UBND cấp tỉnh nơi thực hiện dự án giao thông theo hình thức BOT theo hướng địa phương phải tham gia và các hoạt động của dự án ngay từ giai đoạn khảo sát, thiết kế đến khi dự án được đưa vào vận hành, khai thác.
Hiện việc thực hiện các chế độ miễn giảm phí giao thông đối với các doanh nghiệp và người dân đang cư trú, sản xuất tại khu vực đặt trạm thu phí BOT không thống nhất, mỗi địa phương, mỗi doanh nghiệp thực hiện khác nhau. Để thực hiện thống nhất trên toàn quốc, tránh tình trạng “xin - cho” đối với từng dự án như hiện nay, cử tri kiến nghị Chính phủ sớm ban hành quy định thống nhất về chế độ ưu tiên về phí đối với các hộ dân, doanh nghiệp đang sinh sống, sản xuất gần nơi đặt trạm.
Trả lời: Tại công văn số 646/BGTVT-ĐTCT ngày 16/01/2018
1. Về sự phối hợp với địa phuơng trong quá trình thực hiện các dự án BOT
Các quy định về mối quan hệ giữa Bộ GTVT, chủ đầu tư và UBND cấp tỉnh nơi thực hiện dự án giao thông theo hình thức BOT theo hướng địa phương phải tham gia vào các hoạt động của dự án ngay từ giai đoạn khảo sát, thiết kế đến dự án đưa vào vận hành, khai thác như ý kiến của cử tri đã được quy định cụ the trong các Luật, Nghị định và Thông tư trong lĩnh vực đầu tư xây dựng như Luật Xây dựng, Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015, Nghị định 15/2015/ND-CP ngay 14/02/2015, Thông tư 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính...
Nghiêm túc thực hiện các quy định về đầu tư xây dựng, trong quá trình trien khai thực hiện các dự án BOT, Bộ GTVT đã lấy ý kiến của các bộ, ngành và địa phương về các vấn đề liên quan đến các dự án ngay từ giai đoạn khảo sát, thiết kế đến dự án đưa vào vận hành, khai thác như chủ trương đầu tư, quy mô, hướng tuyến, vị trí trạm và mức thu phí, nội dung Hợp đồng dự án.
2. Về miễn giảm phí dịch vụ sử dụng đường bộ
- Để khắc phục một phần bất cập trong chính sách phí tại các trạm BOT, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt làm việc với các địa phương và Nhà đầu tư căn cứ vào điều kiện thực tế từng trạm đề đề xuất giải pháp xử lý trên phạm vi cả nước (miễn giảm giá đối với các hộ dân quanh trạm). Việc giảm giá tại các trạm phải dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả phương án tài chính của các dự án, đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, Nhà đầu tư và người sử dụng, phù họp với quy định pháp luật. Như vậy, mức miễn giảm giá tại các trạm BOT sẽ có sự khác nhau do phụ thuộc vào điều kiện thực tế và tính khả thi phương án tài chính của từng trạm.
- Bộ GTVT thống nhất với đề xuất của cử tri việc phải có quy định thống nhất chế độ ưu tiên về giá đối với các hộ dân, doanh nghiệp đang sinh sống, sản xuất gần nơi đặt trạm thu giá. Bộ GTVT đã có văn bản số 11519/BGTVT-ĐTCT ngày 11/10/2017 giao cho các cơ quan chuyên môn xây dựng Thông tư quy định nội dung này để thống nhất áp dụng.
62. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ cũng như Bộ Giao thông vận tải cần có xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân có sai phạm trong đầu tư xây dựng đường BOT thời gian qua gây bất bình trong nhân dân.
Trả lời: Tại công văn số 493/BGTVT-ĐTCT ngày 16/01/2018
Để phát triển nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, việc đề ra giải pháp xã hội hóa đầu tư để huy động nguồn lực ngoài ngân sách là xu hướng tất yếu khách quan, là giải pháp hữu hiệu để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và nâng cao chất lượng dịch vụ giao thông vận tải, là chủ trương đúng đắn của Đảng đã được thể hiện tại Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Được sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và sự phối hợp hiệu quả của các bộ, ngành, cũng như sự đồng tình ủng hộ của chính quyền các địa phương, sau hơn 5 năm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải đã hoàn thành nhiều dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT và BT với quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu đầu tư chung của ngành, nhất là trong điều kiện Nhà nước còn nhiều khó khăn, với nhiều áp lực về nợ công. Cho tới nay, nhiều tuyến quốc lộ đã được nâng cấp, mở rộng; hình thành nhiều tuyên cao tốc đạt tiêu chuẩn quốc tế... cải thiện đáng kể điều kiện đi lại, từng bước đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa ngày càng tăng của người dân và góp phần đổi mới, hoàn thiện bức tranh hạ tầng giao thông vận tải tại Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy việc đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT, BT cũng bộc lộ một số tồn tại về cơ chế chính sách và công tác quản lý nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện như sau:
1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hình thức đầu tư BOT chưa hoàn thiện và đồng bộ, một số quy định chưa phù hợp thực tế và thông lệ quốc tế; quá trình xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh hình thức BOT chưa lường hết được các tác động đối với người sử dụng đường.
2. Việc đầu tư cải tạo, mở rộng và hiện đại hóa các công trình hiện có là lĩnh vực được Chính phủ khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT quy định tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CP. Cơ bản các dự án đều được Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư sau khi có ý kiến đồng thuận của các bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, việc cải tạo, mở rộng, nâng cấp các công trình giao thông hiện có làm người dân đang được sử dụng đường bộ không phải trả phí sẽ phải trả phí, không còn sự lựa chọn miễn phí gây ra tác động nhất định.
3. Công tác lập, thẩm định, tính toán phương án tài chính và phê duyệt dự án của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn một số nội dung chưa hợp lý; công tác thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán của nhà đầu tư còn bất cập, tồn tại một số sai sót.
4. Công tác lựa chọn nhà đầu tư còn bất cập, các dự án cơ bản áp dụng hình thức chỉ định thầu. Mặc dù việc chỉ định thầu được thực hiện theo quy định pháp luật nhưng hình thức này còn thiếu sự cạnh tranh và có dư luận cho rằng còn thiếu minh bạch; năng lực nhà đầu tư trong nước còn hạn chế; chưa thu hút được nhà đầu tư, tổ chức tín dụng nước ngoài tài trợ vốn.
5. Việc giám sát thi công chưa chặt chẽ, một số dự án chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác quyết toán còn chậm, khó khăn trong việc xác định giá trị đầu tư thực tế, xác định thời gian thu giá hoàn vốn của dự án.
6. Công tác lựa chọn vị trí đặt trạm thu giá và chính sách giá tại một số dự án còn bất cập nên chưa nhận được sự đồng thuận của người dân. Chưa có giải pháp hiệu quả để quản lý nguồn thu của các trạm thu giá, còn có ý kiến cho rằng có hiện tượng gian lận trong thu giá.
Thực tế với vai trò Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Bộ Giao thông vận tải cũng chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình tổ chức thực hiện, đồng thời Bộ Giao thông vận tải đã chủ động có văn bản số 4771/BGTVT-TC ngày 28/4/2014 đề nghị Kiểm toán Nhà nước hỗ trợ kiểm toán các dự án BOT để kịp thời chấn chỉnh các tồn tại ngay trong quá trình thi công, tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót, gây thiệt hại cho Nhà nước trong quá trình thi công công trình.
Tính đến thời điểm này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã triển khai nhiều cuộc thanh tra, kiêm toán đối với các dự án BOT, BT như: Thanh tra Chính phủ đã có kết luận 08 dự án, Thanh tra Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có kết luận 14 dự án, Thanh tra Bộ Giao thông vận tải đã có kết luận 30 dự án, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán 47 dự án, Thanh tra Bộ Xây dựng có kết luận 01 dự án. Đồng thời, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã giám sát trong hơn 07 tháng đối với các dự án BOT do Bộ GTVT là CQNNCTQ và đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017.
Tại kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán và đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều khẳng định tính đúng đắn của chủ trương kêu gọi đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức đối tác công tư trong điều kiện nguồn lực ngân sách hạn hẹp, chỉ ra một số tồn tại trong quá trình thực hiện đầu tư các dự án BOT trong thời gian vừa qua nhưng không phát hiện có tham nhũng, lãng phí hoặc sai phạm trong quyết định chủ trương đầu tư, vị trí trạm thu giá.
Đối với các tồn tại sai sót thuộc chủ quan, Bộ Giao thông vận tải đã nghiêm túc tiếp thu, rút kinh nghiệm và đã cập nhật điều chỉnh các sai sót theo ý kiến kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán. Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải đã yêu cầu các tập thể, cá nhân có liên quan nghiêm túc rút kinh nghiệm, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân để xử lý theo quy định.
63. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ GTVT sớm có phương án di dời Trạm T2 Quốc lộ 91, vì phương tiện tham gia giao thông trên QL80 qua đoạn đường QL91 khoảng 750m nhưng phải đóng giá dịch vụ như đi trên toàn tuyến, rất bất hợp lý (đây là đoạn trùng giữa QL91 và QL80), nhất là khi cầu Vàm Cống được đưa vào vận hành thì việc bất hợp lý khi đi qua trạm càng gia tăng, phức tạp hơn (do tất cả các phương tiện giao thông đi từ thành phố Hồ Chí Minh về An Giang và ngược lại đều phải đóng giá dịch vụ qua trạm này dù các phương tiện chỉ đi qua một đoạn khoảng 200m nhưng phải đóng giá dịch vụ như đi từ thành phố Hồ Chí Minh về An Giang.
Trả lời: Tại công văn số 790/BGTVT-ĐTCT ngày 23/01/2018
- Về vị trí trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ trên QL91:
Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ phí, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì ban hành các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC, trong đó có quy định việc đặt trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ, cụ thể: (1) Đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu giá khoảng cách giữa các trạm thu giá không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 213/TTg-KTN ngày 06/02/2015 giao Bộ GTVT thống nhất với Bộ Tài chính và UBND thành phố Cần Thơ về vị trí trạm thu phí hoàn vốn cho dự án BOT, theo đó: Trong quá trình lập dự án đầu tư Bộ GTVT đã chỉ đạo tư vấn lập dự án nghiên cứu các phương án lập trạm thu giá hoàn vốn cho dự án (có xét đến các tuyến lân cận như: Tuyến tránh Long Xuyên, Tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi, khu vực Cầu Vàm Cống khi nghiên cứu dự án không có trạm thu giá trên tuyến). Bộ GTVT cũng đã nhiều lần làm việc và được UBND thành phố Cần Thơ có văn bản số Văn bản số 744/UBND-XDĐT ngày 13/02/2015, Đoàn Đại biểu Quốc hội Cần Thơ có văn bản số 153/ĐĐBQH ngày 15/9/2014, HĐND thành phố Cần Thơ có văn bản số 465/HĐND-TT ngày 16/9/2014, Thành ủy Cần Thơ có văn bản số 1453-CV/TU ngày 17/9/2014 thống nhất đặt hai trạm thu giá hoàn vốn dự án (trạm T1 tại Km16+905,83 và Trạm T2 tại Km50+050). Tại văn bản số 2043/BTC-HCSN ngày 18/02/2014 và Văn bản số 18756/BTC-ĐT ngày 23/12/2014 của Bộ Tài chính đã thống nhất lập vị trí trạm trong phạm vi dự án. Như vậy, trạm T1 tại Km16+905,83 và Trạm T2 tại Km50+050 nằm trong phạm vi dự án, việc thu giá dịch vụ đã được tính toán, phương án thu trên nguyên tắc mỗi chiều phương tiện chỉ trả giá dịch vụ một lần khi đi qua hai trạm, đảm bảo việc hoàn vốn dự án và được sự thống nhất của Bộ Tài chính, địa phương, phù hợp với quy định trình tự thực hiện của pháp luật.
Như vậy, việc triển khai dự án tuân thủ pháp luật, chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, trạm thu giá nằm trong phạm vi dự án và nhận được sự đồng thuận của địa phương (các cơ quan đại diện cho nhân dân khu vực dự án) và của Bộ Tài chính.
- Về việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ:
Trong quá trình tổ chức thu giá dịch vụ đã xảy ra phản ứng của một số tài xế tại trạm thu giá. Qua đánh giá, nguyên nhân chính là hình thức thu giá hở chưa đảm bảo tuyệt đối công bằng cho người sử dụng (do quốc lộ thường có nhiều đường ngang và lối ra, vào các khu dân cư) và hình thức này có hạn chế là chỉ có thể đảm bảo tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm thu giá đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả trong khi đó những người đi quãng đường dài 40÷50 km ở khoảng cách giữa hai trạm thu giá thì vẫn không phải trả). Đồng thời, chính sách giá chỉ miễn giảm cho xe máy, xe thô sơ và một số xe chuyên dùng mà không miễn giá cho các phương tiện của các hộ dân sinh sống trong khu vực lân cận trạm.
Để khắc phục bất cập trong chính sách thu giá, trên cơ sở ý kiến đề xuất của tỉnh An Giang, Kiên Giang, Thành phố Cần Thơ, Tổng cục Đường bộ Việt Nam và Nhà đầu tư, Bộ GTVT đã chấp thuận chủ trương giảm giá đối với các phương tiện qua trạm thu giá T1 và T2 trên QL91 tại văn bản số 660/BGTVT-ĐTCT ngày 26/10/2017. Hiện, Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Nhà đầu tư đang phối hợp với địa phương để giảm giá tại các trạm. Trong thời gian tới, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam trên cơ sở số liệu quyết toán dự án, lưu lượng xe thực tế qua trạm, các chi phí quản lý vận hành đã được chấp thuận tiếp tục cập nhật, tính toán phương án tài chính của dự án để xem xét việc tiếp tục giảm giá tại các trạm này.
- Về việc di dời trạm thu giá T2 trên QL91:
Ngay sau khi nhận được các ý kiến của địa phương, Hiệp Hội ô tô vận tải An Giang về việc kiến nghị di dời trạm thu giá T2 tại Km50+050 trên QL91, Bộ GTVT đã có nhiều buổi làm việc với các địa phương và các cơ quan liên quan để giải quyết kiến nghị, gần đây nhất ngày 20/11/2017, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì buổi làm việc với Lãnh đạo và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang. Theo đó, Bộ GTVT đã đề nghị UBND tỉnh An Giang chia sẻ với Bộ GTVT và Nhà đầu tư trong việc triển khai dự án, tuy trình tự thực hiện đã tuân thủ đúng theo quy định pháp luật nhưng do còn bất cập và đang được các cơ quan liên quan từng bước tiếp tục xử lý trên nguyên tắc xem xét miễn giảm tối đa và tuân thủ quy định pháp luật. Đồng thời, Bộ GTVT cũng đề nghị UBND tỉnh An Giang “phối hợp với Bộ GTVT có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị cập nhật dự án tuyến nối QL91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 làm cơ sở phê duyệt dự án và triển khai đầu tư theo quy định (Thông báo số 437/TB-BGTVT ngày 22/11/2017 của Bộ GTVT)”. Như vậy, khi dự án tuyến nối QL91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên hoàn thành, các phương tiện tham gia giao thông sẽ có sự lựa chọn không phải qua trạm thu giá T2 QL91.
Ngoài ra, Bộ GTVT cũng đã yêu cầu Nhà đầu tư nghiên cứu phương án di dời trạm thu giá T2 trên QL91 trên nguyên tắc phải đảm bảo tính khả thi dự án BOT và hài hòa lợi ích các bên. Theo nghiên cứu của Tư vấn và báo cáo của Nhà đầu tư về doanh thu thu giá thực tế của dự án, lưu lượng phương tiện qua trạm đang thấp hơn so với phương án tài chính trong hợp đồng BOT, nếu di dời trạm T2 trên QL91 đến vị trí mới, đồng thời phải xây dựng lại trạm thu giá, Nhà điều hành mới sẽ gây lãng phí chi phí đầu tư, thời gian thu giá sẽ tiếp tục kéo dài, người sử dụng lại tiếp tục phải trả giá dịch vụ khi qua trạm và phá vỡ phương án tài chính, nguồn vốn vay sẽ thành nợ xấu của Ngân hàng, Ngân hàng không đồng thuận và không cho vay vốn để di dời trạm. Do vậy, trường hợp di dời trạm có thể Nhà nước sẽ phải mua lại dự án BOT trong điều kiện hiện nay thì chưa thể thực hiện được do ngân sách nhà nước hạn hẹp, không nằm trong kế hoạch đầu tư trung hạn 2016-2020 đã được Quốc hội phê chuẩn. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hiện Bộ GTVT và các bộ, ngành, Nhà đầu tư, ngân hàng cho vay và các bên liên quan đang tiếp tục rà soát, xây dựng giải pháp phù hợp để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, chấp thuận.
Để thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng, Bộ GTVT rất mong Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang, các địa phương trong khu vực chia sẻ khó khăn chung của đất nước và đồng thuận với chủ trương xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông.
64. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải có phương án phân bổ hợp lý Quỹ Bảo trì đường bộ cho các địa phương để bảo trì các tuyến đường tỉnh theo hướng ưu tiên cho các tỉnh miền núi, nơi thường xuyên xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất ảnh hưởng đến các tuyến đường giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 18/QBTTW-VB ngày 30/01/2018
- Đối với nguồn vốn Quỹ BTĐB Trung ương phân chia về cho các Quỹ BTĐB Địa phương theo quy định tại Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 của Chính phủ, Hội đồng Quỹ BTĐB Trung ương đã xây dựng phương án phân bổ trong đó có xem xét đến các Quỹ BTĐB Địa phương khó khăn hoặc nhận nguồn phân bổ thấp (trong đó có Quỹ BTĐB Yên Bái). Kinh phí phân chia này được xác định trên nguyên tắc phù hợp với lượng phương tiện, chiều dài đường bộ địa phương kết hợp xem xét hỗ trợ đối với các yếu tố khó khăn của địa phương (vốn phân chia từ Quỹ BTĐB Trung ương về Quỹ BTĐB Yên Bái trong 02 năm gần đây như sau: năm 2017 là 22,285 tỷ đồng; dự kiến năm 2018 là 26,672 tỷ đồng).
- Việc sửa chữa, khắc phục hậu quả lụt bão trên đường giao thông khu vực các tỉnh miền núi để đảm bảo an toàn giao thông là rất cần thiết, trong những năm qua, Quỹ BTĐB Trung ương đã luôn quan tâm, chia sẻ khó khăn, kịp thời triển khai hỗ trợ có mục tiêu cho các địa phương bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai bão lũ gây ra (đặc biệt khu vực miền núi phía bắc nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng).
- Về công tác phân chia nguồn vốn 35% về địa phương năm 2018: Hiện nay, Quỹ BTĐB Trung ương đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ và làm việc với các cơ quan liên quan để sớm phân bổ nguồn 35% năm 2018 về cho các Quỹ BTĐB Địa phương cả nước trong quý I/2018.
Từ các nội dung trên, Quỹ BTĐB Trung ương đề nghị địa phương tiếp tục sử dụng có hiệu quả nguồn vốn Quỹ BTĐB, đáp ứng yêu cầu về đảm bảo an toàn giao thông theo kiến nghị của cử tri và nhân dân địa phương.
65. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Chỉ đạo tổ chức bồi thường, hỗ trợ đất đai thuộc hành lang an toàn giao thông đường bộ (các tuyến quốc lộ) và bàn giao cho các địa phương quản lý theo quy định, tránh tình trạng đất hành lang an toàn giao thông đường bộ chưa bồi thường nhưng cấm người dân sử dụng, gây bức xúc trong nhân dân và khó khăn trong công tác quản lý.
Trả lời: Tại công văn số 754/BGTVT-CQLXD ngày 22/01/2018
Ngày 19/6/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 994/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch lập lại trật tự hành lang an toàn đường bộ, đường sắt giai đoạn 2014 – 2020. Theo đó, đối với lĩnh vực đường bộ, kế hoạch đến hết năm 2017 thu hồi, bồi thường hỗ trợ thiệt hại tài sản gắn liền trên đất nằm trong hành lang an toàn đường bộ (viết tắt là HLATĐB) gây ảnh hưởng đến an toàn giao thông trên các tuyến quốc lộ từ cấp I đến cấp III, khu vực các nút giao, vị trí điểm đen, vị trí tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông; giai đoạn 2018 – 2020 tiếp tục thực hiện trên các tuyến quốc lộ còn lại. Nguồn kinh phí được bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước theo phân cấp hiện hành và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Tuy nhiên, do lịch sử để lại và do tập quán buôn bán nhỏ lẻ, sinh sống tập trung dọc đường, việc bồi thường, hỗ trợ đất đai thuộc HLATĐB đối với quốc lộ hiện hữu là rất khó khăn. Báo cáo sơ kết việc thực hiện kế hoạch lập lại trật tự HLATĐB theo Quyết định số 994/QĐ-TTg của các Cục Quản lý đường bộ, các Sở GTVT được ủy thác quản lý quốc lộ, kinh phí dự kiến để thực hiện công tác đền bù, hỗ trợ giải tỏa HLATĐB từ nay đến hết năm 2020 là khoảng 129.277,65 tỷ đồng. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách hạn hẹp, cấp có thẩm quyền chưa thể bố trí được kinh phí để giải tỏa theo kế hoạch (hiện nay mới chỉ thực hiện được bước rà soát, thống kê phân loại HLATĐB và cắm cọc mốc lộ giới bàn giao cho chính quyền địa phương quản lý theo quy định).
Trên thực tế, để tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi, phù hợp với thực tiễn cuộc sống của người dân, đồng thời để bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đảm bảo an toàn giao thông và tránh lãng phí tài nguyên đất đai, tại Điều 28 Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ cho phép: “Đất hành lang an toàn đường bộ được tạm thời sử dụng vào mục đích nông nghiệp, quảng cáo nhưng không được ảnh hưởng đến an toàn công trình, an toàn giao thông đường bộ; công trình trên đất hành lang an toàn đường bộ có trước khi quy định về quản lý hành lang an toàn đường bộ có hiệu lực, đúng với mục đích sử dụng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của cơ quan có thẩm quyền cấp, không ảnh hưởng đến an toàn giao thông thì được tiếp tục sử dụng...”. Như vậy, các quy định này đã tháo gỡ một phần khó khăn cho nhân dân sinh sống trong phần đất HLATĐB.
Trong thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục đề xuất Chính phủ sửa đổi, điều chỉnh hoặc ban hành theo thẩm quyền để các quy định pháp luật phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống của người dân sinh sống hai bên tuyến và đảm bảo an toàn giao thông.
66. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh về việc hiện nay trên tuyến đường gom cao tốc Hà Nội đi Hải Phòng thiếu rất nhiều hệ thống biển báo, không có hàng rào chắn, gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xem xét và sớm bổ sung hoàn thiện tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 531/BGTVT-KCHT ngày 16/01/2018
Hệ thống đường gom thuộc Dự án đường đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng qua địa bàn tỉnh Hải Dương được đưa vào khai thác sử dụng từ tháng 9/2015.
Để làm cơ sở pháp lý trong công tác quản lý, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Quyết định số 1930/QĐ-BGTVT ngày 22/6/2016 điều chuyển các hạng mục công trình: đường gom, đường dẫn, cầu vượt, cống ... trên địa bàn các tỉnh, thành phố Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên thuộc dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội -Hải Phòng để Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố quản lý, khai thác và bảo trì theo quy định. Như vậy hiện nay, đường gom dọc tuyến cao tốc Hà Nội – Hải Phòng thuộc địa phận tỉnh Hải Dương do tỉnh Hải Dương quản lý.
Trong quá trình khai thác sử dụng và trước khi bàn giao cho Sở Giao thông vận tải Hải Dương quản lý khai thác vào tháng 5/2017, Chủ đầu tư dự án đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng (là Tổng công ty phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam) đã bổ sung các hạng mục của hệ thống an toàn giao thông như biển báo, sơn gờ giảm tốc, phản quang... theo đề nghị của Sở GTVT Hải Dương.
Bộ Giao thông vận tải đề nghị UBND tỉnh Hải Dương tiếp tục chỉ đạo Sở Giao thông vận tải Hải Dương rà soát, bổ sung hệ thống an toàn giao thông trên tuyến đường gom nêu trên để nâng cao điều kiện khai thác, thuận lợi cho người tham gia giao thông.
67. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Xem xét đầu tư hệ thống đèn tín hiệu giao thông tại điểm đầu đường tránh Nguyễn Hoàng (điểm nối giữa thành phố Tam Kỳ với xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành); đầu tư sơn kẻ vạch đường tránh Nguyễn Hoàng, nhằm đảm bảo an toàn giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 575/BGTVT-KCHT ngày 17/01/2018
1. Về việc đầu tư sơn kẻ vạch đường tránh Nguyễn Hoàng, nhằm đảm bảo an toàn giao thông:
Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 922/BGTVT-KCHT ngày 24/01/2017 giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sửa chữa nền, mặt đường, hệ thống thoát nước, an toàn giao thông trên đường tránh Nguyễn Hoàng thuộc thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trong dự án này có hạng mục sơn kẻ lại vạch đường. Hiện nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đang hoàn chỉnh các thủ tục để triển khai; Bộ Giao thông vận tải đã và đang đôn đốc Tổng cục Đường bộ Việt Nam khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án, hoàn thành trong năm 2018 để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
2. Đối với việc đầu tư hệ thống đèn tín hiệu giao thông tại điểm đầu đường tránh Nguyễn Hoàng (điểm nối giữa thành phố Tam Kỳ với xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành):
Vị trí này là nút giao ngã ba giữa Quốc lộ 1 và đường tránh Nguyễn Hoàng tại Km996+1950 Quốc lộ 1, hiện tại nút giao này chưa có đèn tín hiệu giao thông. Vì vậy, để đảm bảo an toàn giao thông và thuận lợi cho người tham gia giao thông, Bộ Giao thông vận tải giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam nghiên cứu triển khai các giải pháp tăng cường an toàn giao thông phù hợp tại nút giao, hoàn thành đồng bộ cùng với dự án sửa chữa nền, mặt đường tuyến tránh Nguyễn Hoàng nêu trên (trong đó có xem xét giải pháp lắp đặt hệ thống đèn tín hiệu giao thông và bàn giao cho địa phương tiếp nhận quản lý, khai thác, bảo trì hệ thống đèn tín hiệu sau khi hoàn thành).
68. Cử tri tỉnh Ninh Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị một số trạm gác chắn đuờng sắt trên địa bàn thành phố Tam Điệp thiết kế đuờng mở gác chắn nguợc quy tắc giao thông gây ùn tắc và xung đột giao thông sau khi đóng mở gác chắn.
Trả lời: Tại công văn số 608/BGTVT-KCHT ngày 18/01/2018
Tuyến đường sắt Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh chạy qua địa bàn Thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình với chiều dài là 1 l,5km (từ km 123 + 500 đến km 135 + 000), có 08 đường ngang có người gác (Km 125 + 695; Km 127 + 075; Km 127 + 610; km 128 + 075; Km 128 + 575; Km 130 + 680; Km 134 + 135; Km 135 + 500). Toàn bộ các đường ngang trên được bố trí phòng vệ theo đúng quy định tại Thông tư số 62/2015/TT-BGTVT ngày 04/11/2015 của Bộ Giao thông vận tải. Việc đóng chắn các đường ngang nêu trên được thực hiện theo đúng quy định về đóng chắn đường ngang. Cụ thể là: Chắn phải bắt đầu đóng từ bên phải đường bộ (theo hướng đi vào đường ngang) sang phía trái; nếu đường ngang có nhiều chắn thì phải đóng chắn phía bên phải trước, đóng chắn phía trái tiếp theo cho đến chắn tận cùng phía bên trái.
Hiện tượng ùn tắc, xung đột giao thông tại các đường ngang nêu trên là do các đường ngang nằm trong khu vực đông dân cư nên mật độ người và phương tiện giao thông đi qua đường ngang rất lớn, đặc biệt là vào thời gian từ 6h đến 8h sáng, 16h đến 18h chiều và thời điểm có tàu qua đường ngang. Mặt khác, phần đường bộ hướng vào đường ngang đều không bố trí vạch, dải ngăn cách phân làn đường. Do đó, khi nhân viên đường sắt thao tác đóng chắn đón tàu, người và phương tiện tham gia giao thông dừng, đỗ phương tiện tràn sang phần đường hướng ngược chiều. Khi tàu đi qua, chắn mở, người và phương tiện giao thông đi qua đường không thể lưu thông, gây ùn tắc và có nguy cơ mất an toàn giao thông.
Để đảm bảo an toàn giao thông, tránh gây ùn tắc và xung đột giao thông tại các vị trí đường ngang; Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo cơ quan quản lý đường bộ rà soát, khẩn trương bố trí vạch phân chia hai chiều xe chạy, vạch báo gần chỗ giao nhau với đường sắt phù hợp với quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ QCVN 41:2016/BGTVT và Thông tư số 62/2015/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải. Đồng thời Bộ Giao thông vận tải cũng đề nghị Chính quyền địa phương phối hợp thực hiện một số việc sau:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phố biến pháp luật về an toàn giao thông đến mọi người dân trên địa bàn.
- Chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường công tác trực chốt, điều phối giao thông, kiểm tra, xử lý các vi phạm trật tự an toàn giao thông tại các đường ngang, đặc biệt vào giờ cao điểm sáng, chiều.
69. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Thời gian vừa qua trên tuyến Quốc lộ 1A được nâng cấp, mở rộng tạo sự giao thông đi lại thuận lợi. Tuy nhiên, việc bố trí sắp xếp mở dải phân cách 1 số vị trí chưa phù hợp. Đề nghị Bộ GTVT quan tâm xem xét và mở dải phân cách tại Km1712 đến Km1714 (vì đoạn này có trường mẫu giáo và đặt dải phân cách đặt quá xa).
Trả lời: Tại công văn số 610/BGTVT-KCHT ngày 18/01/2018
Theo thiết kế, các dự án nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1 qua tỉnh Bình Thuận (đoạn Km1589+300 - Km1720+800) được đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT và vốn trái phiếu Chính phủ, có lắp đặt dải phân cách giữa với tổng cộng 93 điểm mở dải phân cách giữa. Từ khi hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng đến nay, Tổng cục ĐBVN và Cục Quản lý đường bộ IV đã phối hợp với Sở GTVT Bình Thuận, Ban ATGT tỉnh Bình Thuận, Doanh nghiệp dự án BOT nhiều lần tiến hành kiểm tra, rà soát điều chỉnh đóng (mở) dải phân cách giữa cho phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo an toàn giao thông.
Đối với đề nghị mở dải phân cách giữa đoạn Km1712 - Km1714 có trường mẫu giáo: Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN chủ trì, phối hợp với Sở GTVT Bình Thuận, Ban ATGT tỉnh Bình Thuận và các cơ quan liên quan kiểm tra hiện trường, nghiên cứu xem xét kiến nghị việc điều chỉnh dải phân cách giữa cho phù hợp, tạo thuận lợi cho nhân dân và đảm bảo an toàn giao thông; báo cáo kết quả thực hiện về Bộ GTVT.
70. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Cử tri Kiên Giang tiếp tục phản ánh đường giao thông Quốc lộ 61 (đoạn từ cầu Rạch Tìa đến cầu Cái Tư giáp tỉnh Hậu Giang) vừa mới thi công nhưng đã bị xuống cấp nghiêm trọng, rất nhiều nơi bị hư hỏng (ổ trâu, ổ voi) nên đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông rất nghiêm trọng, thậm chí chết người, từ đó gây nhiều bức xúc trong Nhân dân. Đề nghị Bộ GTVT sớm khắc phục sửa chữa để tạo điều kiện cho người dân lưu thông an toàn.
Trả lời: Tại công văn số 495/BGTVT-CQLXD ngày 16/01/2018
Đoạn tuyến Quốc lộ 61 được phản ảnh thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 61 đoạn Cái Tư - Gò Quao tỉnh Kiên Giang do Tổng cục Đường bộ Việt Nam làm Chủ đầu tư và Ban Quản lý dự án 8 là cơ quan đại diện Chủ đầu tư. Giai đoạn 1 của Dự án khởi công Quý III/2014 và hoàn thành vào tháng 12/2015 với kết cấu mặt đường là láng nhựa.
Tuy nhiên, trong quá trình đưa vào sử dụng Giai đoạn 1 và theo dõi diễn biến lún, trên mặt đường có xuất hiện hư hỏng làm ảnh hưởng đến giao thông và đời sống của nhân dân trong khu vực. Ngay khi có hiện tượng hư hỏng, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án 8, Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát và các Nhà thầu kiểm tra, xác định nguyên nhân, khẩn trương tiến hành sửa chữa khắc phục ngay các hư hỏng, đồng thời thực hiện công tác đảm bảo an toàn giao thông cho người và phương tiện lưu thông trên tuyến. Tuy nhiên do gặp thời tiết bất lợi, mưa lớn kéo dài liên tục từ tháng 5/2017 cho đến nay, chỉ có thể sửa chữa khi thời tiết khô ráo (trời nắng) mới đảm bảo chất lượng nên thời gian thi công phải kéo dài. Hiện nay, theo báo cáo của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, công tác sửa chữa đã cơ bản kết thúc.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ Giao thông vận tải đã có chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam thực hiện các nội dung như sau:
Bộ Giao thông vận tải trân trọng cám ơn cử tri tỉnh Kiên Giang đã quan tâm đến hoạt động của ngành giao thông vận tải và mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ, đóng góp ý kiến của cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
71. Cử tri tỉnh Hậu Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay Quốc lộ 1A đoạn qua phường Hiệp Thành, thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang giáp với xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng triều cường gây ngập đoạn đường có chiều dài khoảng 500m (với biên độ từ 30cm - 50cm), gây ảnh hưởng đến việc đi lại của các phương tiện giao thông. Cử tri kiến nghị Bộ GTVT chỉ đạo Tổng cục ĐBVN khảo sát, nâng cấp chống ngập nhằm đảm bảo cho các phương tiện tham gia giao thông được thuận lợi.
Trả lời: Tại công văn số 758/BGTVT-KCHT ngày 22/01/2018
Tại Thông báo số 429/TB-VPCP ngày 23/12/2016 và Thông báo số 239/TB-VPCP ngày 26/5/2017 của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đồng ý giao Bộ Giao thông vận tải bố trí từ nguồn vốn dư của các dự án cải tạo, nâng cấp QL.1 và đường Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên để triển khai Dự án cải tạo, nâng cấp QL.1 đoạn từ thị xã Ngã Bảy đến huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Tuy nhiên, do chưa cân đối được nguồn vốn, đồng thời đoạn tuyến nêu trên mới được quy hoạch với quy mô 02 làn xe nên Bộ Giao thông vận tải đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận điều chỉnh quy hoạch từ quy mô đường cấp III, 02 làn xe thành 04 làn xe cơ giới và 02 làn xe hỗn hợp làm cơ sở triển khai đầu tư nâng cấp đoạn tuyến này khi cân đối được nguồn vốn.
Dự kiến lộ trình giải quyết và thời điểm giải quyết xong: Do tình trạng biến đổi khí hậu trong những năm gần đây, đặc biệt tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có hiện tượng sụt lún đất do khai thác nước ngầm. Thực tế, trên tuyến Quốc lộ 1 đoạn qua các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng xuất hiện một số vị trí bị ngập cục bộ khi triều cường. Vì vậy, việc xem xét xử lý các vị trí ngập để đảm bảo cho các phương tiện tham gia giao thông được thuận lợi là cần thiết, Bộ Giao thông vận tải sẽ Giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam khảo sát, đánh giá hiện trạng, nghiên cứu nguyên nhân ngập úng để từ đó đề xuất giải pháp xử lý cụ thể phù hợp, hiệu quả và tiết kiệm (nâng cao độ, kiên cố hóa và tăng cường thoát nước…) trong thời gian chưa triển khai đầu tư nâng cấp đoạn tuyến này.
72. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Việc xây dựng hàng rào chắn bảo vệ công trình giao thông đường Hồ Chí Minh ở phía trước nhà sinh hoạt cộng đồng của xã Húc Nghì, huyện Đăkrông, tỉnh Quảng Trị gây khó khăn, bất tiện khi nhân dân đến sinh hoạt, hội họp. Kiến nghị Cục đường bộ, Chi cục quản lý 205 xem xét có phương án giải quyết.
Trả lời: Tại công văn số 525/BGTVT-KCHT ngày 16/01/2018
Đường Hồ Chí Minh nhánh Tây được bàn giao đưa vào sử dụng từ năm 2004. Đến năm 2006, Ủy ban nhân dân xã Húc Nghì đã xây dựng Nhà sinh hoạt cộng đồng, đấu nối vào đường Hồ Chí Minh nhánh Tây tại Km286+940 và từ đó đến nay vẫn được sử dụng khai thác bình thường.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân địa phương đến sinh hoạt tại Nhà sinh hoạt cộng đồng xã Húc Nghì, đồng thời đảm bảo an toàn giao thông; Bộ Giao thông vận tải giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam kiểm tra, xem xét hướng dẫn Ủy ban nhân dân xã Húc Nghì trình tự thủ tục, giải quyết việc mở hộ lan tôn sóng theo quy định.
73. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ có giải pháp khắc phục tình trạng đoạn đường tránh vòng dưới chân cầu An Hữu quá thấp nên thường xuyên bị ngập nước do triều cường hoặc mưa lớn, nhưng lại không thể nâng cao mặt đường do tĩnh không cầu sẽ bị thu hẹp quá mức cho phép.
Trả lời: Tại công văn số 532/BGTVT-KCHT ngày 16/01/2018
Hiện nay tại Km2023+633 Quốc lộ 1 có hai cầu An Hữu: cầu An Hữu cũ được xây dựng từ năm 1972 dài 174,7m, được sửa chữa năm 2015 với thiết kế không thay đổi kết cấu, chiều cao của hệ thống dầm chủ; cầu An Hữu mới dài 383m được xây dựng tiếp giáp cầu cũ và đưa vào sử dụng năm 2015. Đường chui dưới gầm cầu An Hữu (cả cầu cũ và mới) để người dân qua lại hai bên cầu là đường dân sinh do địa phương tự thực hiện và không có Giấy phép của cơ quan quản lý đường bộ. Đường chui dân sinh dưới gầm cầu An Hữu này có kết cấu mặt đường BTXM, rộng 2,5m, mặt đường cách đáy dầm cầu An Hữu cũ khoảng 1,90m và cách đáy dầm cầu An Hữu mới khoảng 3,0m, thường bị ngập nước khi có mưa hoặc triều cường nên ảnh hưởng việc lưu thông trên đường.
Công trình cầu An Hữu cũ là cầu yếu, bị hạn chế tốc độ và tĩnh không thấp so với yêu cầu đảm bảo sự đi lại bình thường của đường chui dân sinh nên Bộ GTVT đã chỉ đạo nghiên cứu xây dựng cầu khác thay thế để đồng bộ với cầu An Hữu mới. Tuy nhiên do khó khăn về nguồn vốn nên đến nay chưa thực hiện được. Để khắc phục tình trạng đường vòng dưới gầm cầu An Hữu cũ bị ngập, trước mắt, đề nghị UBND tỉnh Tiền Giang chỉ đạo các Sở, Ngành liên quan của địa phương tổ chức giao thông theo hướng dọc hai bên đường đầu cầu An Hữu để đảm bảo an toàn giao thông. Về lâu dài, Bộ GTVT sẽ kiến nghị Chính phủ bố trí vốn để xây dựng cầu khác thay thế cầu An Hữu cũ, khi đó tĩnh không cầu An Hữu cũ sẽ được nâng lên bằng cầu An Hữu mới và đáp ứng nhu cầu đi lại của các loại phương tiện trong mọi điều kiện.
74. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông vận tải, Xây dựng cử các đoàn công tác kiểm tra đánh giá thiệt hại, nguyên nhân hư hỏng và hỗ trợ giải pháp kỹ thuật xây dựng lại các công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi bị hự hỏng (trong đó đặc biệt là công trình cầu Thia, kè suối Thia, kè suối Nung). Đề nghị Bộ Giao thông vận tải hỗ trợ khẩn cấp rọ đá và dầm cầu Benllay khắc phục các công trình giao thông thiết yếu như cầu Thia, đường tỉnh và tuyến đường giao thông khác.
Trả lời: Tại công văn số 521/BGTVT-KCHT ngày 16/01/2018
1. Vừa qua trên địa bàn tỉnh Yên Bái có mưa lớn diễn ra trong thời gian dài, dẫn đến hiện tượng lũ lụt gây thiệt hại về người và tài sản, giao thông bị chia cắt. Lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải cùng các đơn vị chức năng của Bộ đã chủ động, kịp thời đến kiểm tra hiện trường, làm việc với Chính quyền và các cơ quan chức năng địa phương để đưa ra các giải pháp xử lý khắc phục, nhằm giảm thiểu thiệt hại.
Đối với sự cố xảy ra tại công trình cầu Ngòi Thia Km0+350 đường tỉnh 174 (đường Văn Chấn – Trạm Tấu) thuộc thị xã Nghĩa Lộ vào lúc 12h00 ngày 11/10/2017, Bộ Giao thông vận tải đã giải quyết với tinh thần trách nhiệm cao, đúng quy định pháp luật. Ngay sau khi xảy ra sự cố, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái thành lập Tổ điều tra sự cố để giám định nguyên nhân sự cố công trình cầu Ngòi Thia bằng Quyết định số 2948/QĐ-BGTVT ngày 18/10/2017 của Bộ GTVT.
Tổ điều tra sự cố đã khẩn trương huy động đơn vị Tư vấn độc lập do Sở GTVT Yên Bái chỉ định là Trung tâm kỹ thuật đường bộ - Tổng cục Đường bộ Việt Nam thực hiện các công việc chuyên môn phục vụ cho công tác giám định nguyên nhân sự cố, đề xuất phương án khắc phục và huy động Viện Khoa học và công nghệ GTVT tiến hành thẩm tra, đối chứng kết quả của đơn vị Tư vấn độc lập.
Ngày 01/12/2017, Bộ Giao thông vận tải đã có Công văn số 13594/BGTVT-KHCN gửi Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái để thông báo kết quả giám định nguyên nhân sự cố công trình, trong đó đã nêu ra các nguyên nhân, phương hướng khắc phục sự cố và đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái chỉ đạo các đơn vị liên quan có giải pháp khôi phục công trình, đảm bảo an toàn cho công trình, phục vụ đi lại của người dân theo đúng chức năng.
2. Để phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái, kịp thời khắc phục hậu quả mưa lũ trong thời gian qua và đảm bảo giao thông phục vụ đi lại của người dân; Bộ Giao thông vận tải đã có Quyết định số 2369/QĐ-BGTVT ngày 10/8/2017 điều động 30m dầm Bailley hỗ trợ có thời hạn cho Sở Giao thông vận tải Yên Bái để đảm bảo giao thông, khắc phục hậu quả mưa lũ trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Đồng thời Bộ Giao thông vận tải cũng đã có Công văn số 8973/BGTVT-PCTT&TKCN ngày 10/8/2017, giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam làm thủ tục theo quy định hiện hành, điều chuyển 2.000 rọ thép để hỗ trợ Sở Giao thông vận tải Yên Bái khắc phục hậu quả do mưa lũ gây ra trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
75. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Tổng công ty Đầu tư và phát triển hạ tầng đường cao tốc Việt Nam (VEC) đã có văn bản số 3209/VEC-QLTC ngày 01/9/2017 về giải quyết các kiến nghị của cử tri tỉnh Vĩnh Phúc. Đoàn ĐBQH tỉnh đã thông báo tới cử tri văn bản số 3209/VEC-QLTCA ngày 01/9/2017 của VEC tại hội nghị tiếp xúc cử tri. Tuy nhiên, cử tri, đại diện các cấp chính quyền của tỉnh đều chưa nhất trí và đề nghị:
- Về các tuyến đường gom dân sinh: Đề nghị VEC thi công hoàn thiện các tuyến đường gom còn lại theo hồ sơ thiết kế và bàn giao cho UBND xã quản lý.
- Về việc nạo vét, khơi thông cống thoát nước, mương thủy lợi: Đề nghị VEC thi công hoàn thiện các công trình thủy lợi nằm ngoài phạm vi hàng rào đường cao tốc theo hồ sơ thiết kế và bàn giao cho UBND cấp xã quản lý để đảm bảo điều kiện canh tác bình thường cho người dân.
- Về việc sửa chữa cống chui dân sinh: Đề nghị VEC sửa chữa, khắc phục ngay các cống chui dân sinh bị xuống cấp, hư hỏng, ngập nước để đảm bảo điều kiện đi lại thuận lợi cho người dân.
- Về việc bồi thường hỗ trợ, hỗ trợ trong quá trình thi công: Đề nghị VEC phối hợp với UBND các huyện và Sở Giao thông vận tải Vĩnh Phúc kiểm tra, có văn bản trả lời các hộ dân liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ hoa màu bị ngập úng, đất xô sạt, tải sản bị rung nứt để giải quyết dứt điểm nội dung này.
- Về các nội dung VEC chưa thống nhất với địa phương như việc giải quyết ảnh hưởng nằm ngoài phạm vi GPMB; việc bổ sung thiết kế kè gia cố mương chống sạt lở khu tái định cư xã Đức Bác, huyện Sông Lô: Đề nghị Bộ GTVT cử các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ GTVT phối hợp với VEC và UBND tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra cụ thể từng vị trí, xác định nguyên nhân bị ảnh hưởng để thống nhất biện pháp giải quyết; chấp thuận cho bổ sung và chỉ đạo VEC cấp kinh phí cho địa phương để xây dựng kè gia cố mương chống sạt lở khu tái định cư của Dự án.
Trả lời: Tại công văn số 695/BGTVT-CQLXD ngày 19/01/2018
Về các nội dung kiến nghị trên, Bộ GTVT đã có ý kiến chi tiết gửi UBND tỉnh Vĩnh Phúc tại Văn bản số 12690/BGTVT-CQLXD ngày 10/11/2017. Trên cơ sở báo cáo của VEC tại Văn bản số 96/VEC-QLTC ngày 11/01/2018, Bộ GTVT tiếp tục trả lời Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc như sau:
1. Các tuyến đường gom dân sinh.
VEC đã chỉ đạo Nhà thầu thi công hoàn thiện đường gom, đường phục vụ sản xuất nông nghiệp và đã tiến hành bàn giao toàn bộ cho địa phương, cụ thể: Đến ngày 10/11/2017 đã bàn giao 20/21 xã; đến ngày 11/01/2018 đã bàn giao xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên là xã cuối cùng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Về việc nạo vét, khơi thông cống thoát nước, mương thủy lợi.
VEC đã chỉ đạo đơn vị quản lý, khai khác (VEC O&M) tiến hành ngay các biện pháp nạo vét, khơi thông cống thoát nước và mương thủy lợi đảm bảo thoát nước, đặc biệt ưu tiên đối với các cống thoát lũ để đảm bảo sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân. Đến nay, các cống thủy lợi, cống chui dân sinh, các mương thủy lợi bằng đất, rãnh đất bị bồi lắng đã thực hiện công tác thanh thải, vệ sinh theo đúng quy định (chi tiết tại văn bản số 966/VECO&M-NBLC ngày 27/12/2017 kèm theo).
Về việc địa phương đề nghị bàn giao hệ thống thoát nước và mương thủy lợi nằm ngoài hàng rào: Các vị trí cống thoát nước qua đường gom và rãnh thoát nước dọc đường gom kết hợp làm kênh mương thủy lợi ngoài hàng rào thuộc hệ thống đường gom dân sinh đã được bàn giao cùng hệ thống đường gom dân sinh cho địa phương quản lý sử dụng .
3. Về việc sửa chữa cống chui dân sinh.
Bộ GTVT đã chỉ đạo VEC tiến hành khảo sát, lập phương án xử lý. Đến nay, VEC O&M đã khơi thông cống rãnh đảm bảo thoát nước. Riêng đối với các vị trí cống cần nâng cao độ lòng cống làm giảm chiều cao tĩnh không, VEC đã làm việc và thống nhất với địa phương về chiều dày nâng cao độ và tĩnh không còn lại để làm cơ sở triển khai thực hiện. Cụ thể: địa phương kiến nghị nâng cao độ 04 cống chui dân sinh Km26+050 (xã Kim Long - Tam Dương); Km34+908 (xã Hoàng Đan - Tam Dương); Km35+764, Km36+460 (xã Đồng Ích - Lập Thạch), VEC đã thỏa thuận với địa phương và sẽ triển khai thực hiện trong thời gian tới, dự kiến hoàn thành trong Quý I/2018.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ GTVT, VEC đang triển khai rà soát công tác khắc phục và đề xuất xử lý các ảnh hưởng của đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó đề xuất nâng lòng cống của 01 vị trí cống chui dân sinh tại Km26+050, bổ sung rãnh thoát nước, gờ chắn nước… các cống chui dân sinh tại Km8+014, Km12+300, Km21+208, Km26+643, Km30+757, Km33+620, Km34+908, Km35+764, Km36+460. VEC dự kiến sẽ thực hiện hoàn thành trong Quý I/2018.
4. Về việc bồi thường, hỗ trợ trong quá trình thi công.
VEC đã chỉ đạo Ban QLDA, Nhà thầu phối hợp với địa phương thực hiện và đã hoàn thành việc chi trả cho các hộ dân. Ban QLDA đã có các công văn gửi Sở GTVT và các huyện Bình Xuyên, Tam Dương, Lập Thạch và Sông Lô là đã chi trả tiền hỗ trợ ảnh hưởng do rung nứt, xô xạt, ngập úng trên địa bàn, đã hoàn thành chi trả và có chứng từ kèm theo (chi tiết các công văn gửi các địa phương gồm: 281/NEPMU-QLTC ngày 03/4/2017; 286a/NEPMU-QLTC ngày 03/4/2017; 296a/NEPMU-QLTC ngày 05/4/2017; 301a/NEPMU-QLTC ngày 07/4/2017 đính kèm).
5. Về các nội dung VEC chưa thống nhất với địa phương như việc giải quyết ảnh hưởng nằm ngoài phạm vi GPMB; việc bổ sung thiết kế kè gia cố mương chống sạt lở khu tái định cư xã Đức Bác, huyện Sông Lô.
5.1. Về việc giải quyết ảnh hưởng nằm ngoài phạm vi GPMB: VEC đã phối hợp cùng Sở GTVT, các địa phương cùng kiểm tra hiện trường và có một số báo cáo cụ thể như sau:
VEC đã có các Văn bản số 216/NEPMU-QLTC ngày 15/3/2017; số 1995/VEC-QLTC ngày 16/6/2017; số 767/NEPMU-KHTC ngày 20/9/2017 gửi UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Sở GTVT Vĩnh Phúc và các địa phương đề nghị khẩn trương giải quyết các kiến nghị của người dân liên quan đến công tác GPMB của Dự án, đặc biệt là các vị trí bổ sung nằm ngoài phạm vi GPMB;
Hiện nay, một số vị trí còn vướng mắc theo đề nghị của địa phương đã được VEC kiểm tra thực tế hiện trường và có báo cáo chi tiết tại Văn bản số 3532/VEC-QLTC ngày 26/10/2017;
Việc tổ chức thực hiện thu hồi đất xây dựng đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thuộc Tiểu dự án GPMB do địa phương làm Chủ đầu tư. Vì vậy, đối với phần diện tích đất bị ảnh hưởng nằm ngoài phạm vi GPMB của Dự án, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc có ý kiến chỉ đạo Chủ đầu tư rà soát những vấn đề còn bất cập (nếu có) để tiếp tục hoàn thiện. Bộ GTVT sẽ chỉ đạo VEC phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của địa phương để giải quyết.
5.2. Về đề nghị bổ sung 09 đường gom dân sinh, 12 tuyến mương thủy lợi và kè gia cố mương chống sạt lở khu Tái định cư (TĐC) xã Đức Bác, huyện Sông Lô:
VEC đã phối hợp với các đơn vị liên quan, tiến hành kiểm tra thực tế hiện trường và có báo cáo chi tiết tại Văn bản số 3532/VEC-QLTC ngày 26/10/2017. Đối với các vị trí đề xuất bổ sung đường gom dân sinh nhưng vi phạm quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đề nghị VEC căn cứ theo các quy định hiện hành để thực hiện đảm bảo an toàn khai thác. Đối với các vị trí không có cơ sở xem xét, nhân dân vẫn đảm bảo lưu thông bình thường, Bộ GTVT đã yêu cầu VEC làm việc trực tiếp với các cơ quan liên quan của địa phương và có báo cáo, đề xuất ý kiến cụ thể với UBND tỉnh Vĩnh Phúc để thống nhất tránh đề xuất nhiều lần.
Do dự án đang trong quá trình thực hiện quyết toán công trình, Hiệp định vay vốn đã kết thúc (kết thúc ngày 31/12/2017), vì vậy việc bổ sung các hạng mục công việc vào thời điểm hiện tại sẽ rất khó khăn về nguồn vốn. Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo VEC phối hợp với địa phương kiểm tra, rà soát lại để có phương án giải quyết dứt điểm các kiến nghị chính đáng của cử tri.
76. Cử tri tỉnh Ninh Bình kiến nghị: Đường sắt Bắc Nam chạy qua thành phố Tam điệp, tỉnh Ninh Bình có rất nhiều đường ngang, ngõ tắt đi qua đường sắt, gần đây ngành đường sắt đã nỗ lực bằng mọi cách để tránh xảy ra tai nạn như đặt biển báo, kẻ vạch sơn, đồng thời cũng làm đường gom bên cạnh đường sắt để đảm bảo an toàn cho nhân dân ở dọc tuyến đường sắt chạy qua. Tuy nhiên, đoạn đường gom từ trường cao đẳng nghề Cơ giới đến cổng bện viện Chỉnh hình chỉ làm 2 đầu, đoạn giữa bỏ lại gây khó khăn cho việc đi lại của người dân. Cử tri đề nghị Chính Chính Phủ xem xét, chỉ đạo các cơ quan liên quan hoàn thành đoạn đường gom nêu trên.
Trả lời: Tại công văn số 608/BGTVT-KCHT ngày 18/01/2018
Đoạn đường sắt từ Km 126+120 đến Km 127+130 tuyến đường sắt Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh (từ Trường cao đẳng nghề cơ giới đến cống Bệnh viện chỉnh hình) thuộc địa bàn Thành phố Tam Điệp đã được Bộ Giao thông vận tải đầu tư xây dựng hai đoạn đường gom và hàng rào đường gom dọc theo đường sắt; hoàn thành đưa vào sử dụng đoạn 380m từ Kml26+750 đến Kml27+130 vào năm 2008 và đoạn 330m từ Kml26+120 đến Kml26+450 vào năm 2014.
Đoạn 300m đường gom, hàng rào đường gom dọc theo đường sắt còn lại - đoạn từ Km 126+450 đến Kml26+ 750 chưa hoàn thành thuộc công trình “Xây dựng các hạng mục công trình giai đoạn 2 Kế hoạch 1856/QĐ - TTg theo lệnh khẩn cấp” đã được Thủ tướng Chính phủ giao thực hiện tại Văn bản số 713/TTg-KTN ngày 16 tháng 7 năm 2012. Do chưa bố trí được nguồn vốn nên dự án nêu trên tạm dừng thực hiện vào tháng 4 năm 2014. Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang tích cực đề nghị Chính phủ bố trí nguồn vốn thực hiện việc nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh và các công trình phụ trợ có liên quan nhằm đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, đường bộ. Khi nguồn vốn được xác định, Bộ Giao thông vận tải sẽ ưu tiên đầu tư hạng mục đoạn đường gom, hàng rào đường gom này để triển khai thực hiện sớm.
77. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Cử tri xã Suối Hiệp, huyện Diên Khánh và xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang đề nghị Bộ GTVT cho thanh kiểm tra việc thiết kế nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1A tại khu vực UBND xã Suối Hiệp, huyện Diên Khánh và 02 thôn Đắc Lộc 1, Đắc Lộc 2 xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang vì sau khi đầu tư nâng cấp, mở rộng, các khu vực này nhiều năm qua luôn bị ngập nước, đồng thời có biện pháp sửa chữa khắc phục tình trạng ngập nước, gây khó khăn trong sinh hoạt của người dân ở khu vực này.
Trả lời: Tại công văn số 203/BGTVT-CQLXD ngày 08/01/2018
Khi triển khai các dự án mở rộng Quốc lộ 1 qua địa bàn tỉnh Khánh Hòa, Bộ Giao thông vận tải đã thỏa thuận với UBND tỉnh Khánh Hòa về quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án (văn bản số 836/UBND ngày 20/02/2013 của UBND tỉnh Khánh Hòa), trong đó tần suất thiết kế là 4% đối với đường, cầu nhỏ, cống thoát nước và là 1% đối với cầu lớn, cầu trung đúng theo tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án.
1. Đối với đoạn qua xã Suối Hiệp, huyện Diên Khánh:
Theo thiết kế bản vẽ thi công được duyệt, hệ thống thoát nước của Quốc lộ 1 đoạn qua xã Suối Hiệp, huyện Diên Khánh gồm: 01 cầu làm mới dài 20m; 08 cống ngang (04 cống làm mới; 04 cống duy trì tận dụng, nối dài) và hệ thống cống thoát nước dọc. Hệ thống thoát nước này được thiết kế với tần suất 4% đảm bảo yếu tố thủy văn theo tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án và thỏa thuận với địa phương.
Từ khi dự án mở rộng Quốc lộ 1 hoàn thành đưa vào sử dụng (tháng 12/2015) đến nay công trình thoát nước hoạt động tốt. Tuy nhiên, tại một số trận mưa lớn trong năm 2016 và năm 2017 đã xảy ra ngập cục bộ một số vị trí nhà dân nằm ngoài đô thị, nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng một số hộ dân tự ý san lấp mặt bằng, nâng cao nền để làm nhà sau này dẫn đến cao độ nền các nhà dân liền kề không đồng nhất, làm mất khả năng thoát nước tự nhiên gây ngập cục bộ khi có mưa lớn nhiều ngày.
Về việc này, Ban QLDA 7 (đơn vị được Bộ GTVT giao nhiệm vụ quản lý thực hiện các dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn qua địa bàn tỉnh Khánh Hòa nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ) đã có văn bản số 2507/BALDA7-ĐHDA4 ngày 12/8/2015 đề nghị chính quyền địa phương can thiệp và có biện xử lý ngăn chặn tình trạng lấn chiếm hành lang, tôn cao nền nhà trong hành lang an toàn đường bộ làm ảnh hưởng đến việc thoát nước của đường bộ.
2. Đối với đoạn qua thôn Đắc Lộc 1 và thôn Đắc Lộc 2, xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang:
Theo thiết kế bản vẽ thi công được duyệt, hệ thống thoát nước của Quốc lộ 1 đoạn qua thôn Đắc Lộc 1 và thôn Đắc Lộc 2, xã Vĩnh Phương, thành phố Nha Trang gồm 14 cống ngang (01 cống làm mới, 01 cống giữ nguyên trạng, 10 cống tận dụng, nối dài và 02 cống tận dụng, nối dài, bổ sung khẩu độ) và hệ thống cống thoát nước dọc. Hệ thống thoát nước này được thiết kế với tần suất 4% đảm bảo yếu tố thủy văn theo tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án và thỏa thuận với địa phương. Ngoài ra, còn thiết kế bổ sung hạng mục thanh thải hạ lưu cống ngang đường Km1447+680 theo đề nghị của địa phương.
Từ khi dự án mở rộng Quốc lộ 1 hoàn thành đưa vào sử dụng (tháng 12/2015) đến nay công trình thoát nước hoạt động tốt. Riêng tại vị trí Km1447+800, mỗi khi có mưa lớn, đất đá trên thượng nguồn núi đổ xuống gây tắc nghẽn hệ thống thoát nước dọc dẫn đến ngập cục bộ tại vị trí trên. Để đảm bảo giao thông, xử lý tình trạng ngập cục bộ tại vị trí trên khi có thiên tai, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo đơn vị quản lý duy tu tuyến đường huy động xe máy, thiết bị dọn dẹp khơi thông dòng chảy mỗi khi có mưa lớn.
78. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Đề nghị Bộ GTVT có ý kiến yêu cầu Công ty TNHH BOT & BT Quốc lộ 20 (đầu tư, khai thác công trình khôi phục, cải tạo Quốc lộ 20 đoạn Km123+105,17 ÷ Km154+400 theo hình thức BOT) phối hợp giải quyết dứt điểm các kiến nghị, khiếu nại phát sinh liên quan đến việc đầu tư, xây dựng và khai thác tuyến đường, trong đó vấn đề một số đoạn tuyến đi qua địa bàn huyện Di Linh, Bảo Lâm thiết kế không hợp lý, không có mương thoát nước, mương dẫn dòng, nên khi mưa lớn nước chảy tràn vào nhà và đất sản xuất gây thiệt hại cho người dân.
Trả lời: Tại công văn số 612/BGTVT-CQLXD ngày 18/01/2018
Trong quá trình triển khai Dự án khôi phục, cải tạo Quốc lộ 20 đoạn Km123+105,17 ÷ Km154+400, Bộ GTVT đã yêu cầu Ban Quản lý dự án 85, Công ty TNHH BOT & BT Quốc lộ 20 (Doanh nghiệp dự án) và các đơn vị liên quan thường xuyên phối hợp với các cơ quan của địa phương để rà soát, hoàn thiện thiết kế, đảm bảo bố trí đầy đủ công trình thoát nước, vuốt nối đường dân sinh… để không ảnh hưởng đến người dân sinh sống dọc hai bên tuyến. Đến nay, Dự án đã hoàn thành và chính thức đưa vào khai thác sử dụng từ tháng 7/2017.
Theo báo cáo của Ban Quản lý dự án 85 và Doanh nghiệp dự án: Sau khi dự án xây dựng, dọc hai bên đường một số đoạn mật độ dân cư tăng nhanh, nhiều hộ dân đã xây dựng nhà ở, vật kiến trúc, làm sân vườn trong phạm vi hành lang bảo vệ đường bộ, san lấp mặt bằng hai bên tuyến cao hơn mặt đường … làm thay đổi địa hình; một số hộ dân san lấp rãnh thoát nước dọc, cửa xả, mương dẫn dòng, làm ảnh hưởng đến việc thoát nước của công trình… Ngoài ra, một số mương dẫn dòng chưa được địa phương bàn giao mặt bằng thi công nên chưa thể hoàn thiện được hệ thống thoát nước của Dự án. Do đó, khi có mưa lớn, xảy ra tình trạng ngập đường, ảnh hưởng đến chất lượng công trình và an toàn giao thông; đồng thời nước chảy tràn vào nhà dân, nương rẫy gây xói lở, ảnh hưởng đến đời sống của người dân xung quanh.
Sau khi nhận được báo cáo của Ban Quản lý dự án 85 và nội dung kiến nghị của cử tri, Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án 85, Doanh nghiệp dự án phối hợp với các cơ quan của địa phương (Sở GTVT tỉnh Lâm Đồng, UBND các huyện, xã có Dự án đi qua), Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các đơn vị liên quan tiến hành kiểm tra toàn bộ hệ thống thoát nước của Dự án và đã chỉ đạo (văn bản số 13718/BGTVT-CQLXD ngày 05/12/2017 của Bộ GTVT) thiết kế, xây dựng bổ sung hệ thống thoát nước các vị trí cần thiết, đảm bảo chất lượng công trình và tránh ảnh hưởng đến đời sống người dân đang sinh sống dọc theo Quốc lộ 20, đến nay các đơn vị đang khẩn trương hoàn thiện thủ tục triển khai thi công.
Để đảm bảo chất lượng công trình, an toàn khai thác và thoát nước ổn định lâu dài trên tuyến Quốc lộ 20, Bộ GTVT kính mong Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng có ý kiến với địa phương chỉ đạo các đơn vị liên quan tuyên truyền, vận động người dân không lấn chiếm, xây dựng công trình trong phạm vi hành lang bảo vệ đường bộ, san lấp hệ thống thoát nước của Dự án và xử lý các trường hợp vi phạm; đồng thời sớm bàn giao mặt bằng thi công tại các vị trí mương dẫn dòng còn lại để hoàn thiện hệ thống thoát nước công trình.
Đối với đoạn đường Mimosa của thành phố Đà Lạt, Bộ GTVT đã có quyết định bổ sung hạng mục cải tạo vào Dự án và đang khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư để triển khai thi công. Hiện nay tuyến đường này đang thuộc quản lý của địa phương, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng có ý kiến với Sở GTVT Lâm Đồng chỉ đạo thực hiện sửa chữa hư hỏng mặt đường, hệ thống thoát nước… đảm bảo giao thông thông suốt và an toàn.
79. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Cử tri phản ánh dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đi qua địa phận các huyện Trấn Yên, Văn Yên và thành phố Yên Bái làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Ngày 08/8/2017, Bộ GTVT đã có văn bản số 8917/BGTVT-CQLXD trả lời vấn đề trên, với những nội dung nêu trong văn bản cử tri không đồng tình và tiếp tục đề nghị Bộ GTVT cần chủ trì phối hợp với các bên liên quan sớm giải quyết dứt điểm vụ việc.
Trả lời: Tại công văn số 727/BGTVT-CQLXD ngày 22/01/2018
Bộ Giao thông vận tải đã có ý kiến gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái tại Văn bản số 8917/BGTVT-CQLXD ngày 08/8/2017. Trên cơ sở báo cáo của VEC tại Văn bản số 96/VEC-QLTC ngày 11/01/2018, Bộ GTVT xin được tiếp tục trả lời như sau:
1. Về các tuyến đường Tỉnh lộ 163 và 166:
Trong quá trình thi công đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Tổng công ty Đường cao tốc Việt Nam (VEC) đã thường xuyên phối hợp với chính quyền địa phương chỉ đạo Nhà thầu duy tu, sửa chữa đảm bảo an toàn cho phương tiện và người dân tham gia giao thông. Sau khi thi công hoàn thành và đưa Dự án vào khai thác sử dụng, từ ngày 18/9/2014 đến ngày 25/11/2014, Nhà thầu đã tiến hành sửa chữa hoàn trả các tuyến đường và bàn giao lại cho chính quyền địa phương để quản lý khai thác (Biên bản làm việc ngày 25/11/2014). Do vậy, việc duy tu bảo dưỡng, nâng cấp đường Tỉnh lộ 163 và 166 sau khi đã khắc phục các ảnh hưởng do thi công dự án thuộc trách nhiệm của địa phương.
2. Hệ thống đường gom dân sinh, cống chui, đường kết nối cống chui, công trình thủy lợi, hạ tầng tái định cư:
- Về hệ thống đường gom dân sinh, cống chui, đường kết nối cống chui, công trình thủy lợi: Trong quá trình thi công, VEC và Nhà thầu thường xuyên phối hợp chính quyền địa phương các cấp kiểm tra rà soát hệ thống mương thủy lợi, đường dân sinh cắt ngang qua đường cao tốc để thiết kế, thi công đấu nối, hoàn trả cho địa phương phù hợp với điều kiện thực tế hiện trường. Đến tháng 12/2015, Dự án đã hoàn thành toàn bộ các hạng mục này trong đó đã bổ sung nhiều công trình dân sinh như đường gom, kênh mương thủy lợi, cống thoát nước.v.v... Bên cạnh đó, sau khi đường cao tốc đi vào giai đoạn khai thác vận hành, các ngày 20/5/2016 và 08/6/2016, VEC đã phối hợp với Sở GTVT, UBND các huyện, xã có đường cao tốc đi qua tiếp tục đi kiểm tra, rà soát từng vị trí đường gom dân sinh và hệ thống mương thủy lợi phải điều chỉnh sửa chữa để phục vụ đi lại và canh tác của các hộ dân. Mặt khác, từ ngày 03/11/2016 đến ngày 30/11/2017, VEC đã tiến hành thi công bổ sung, sửa chữa một số công trình, hạng mục thuộc địa phận huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, cụ thể như sau: Thi công hoàn thiện kéo dài 17 ví trí cống chui dân sinh, đường kết nối cống chui; Làm mới 18 vị trí đường gom dân sinh, đường kết nối vào khu sản xuất,… với tổng chiều dài hơn 11km; Khơi thông hệ thống mương thủy lợi thuộc địa phận xã Hoàng Thắng, huyện Văn Yên.
- Về hạ tầng các khu tái định cư: Đây là một phần khối lượng công việc trong công tác GPMB do địa phương làm Chủ đầu tư. Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái có ý kiến chỉ đạo Chủ đầu tư rà soát những vấn đề còn bất cập (nếu có) để tiếp tục hoàn thiện. Bộ GTVT sẽ chỉ đạo VEC phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của địa phương để giải quyết.
3. Về việc bồi thường cho các hộ dân bị ảnh hưởng do quá trình thi công:
- VEC và các Nhà thầu thi công đã chủ động phối hợp với chính quyền địa phương các cấp để giải quyết kịp thời những ảnh hưởng do việc thi công của Nhà thầu gây ra và các Nhà thầu cũng đã kịp thời chi trả toàn bộ số tiền gây ảnh hưởng trong quá trình thi công cho các hộ dân bị ảnh hưởng bởi Dự án. Theo báo cáo của VEC tại Văn bản số 2596/VEC-QLTC ngày 27/7/2017, VEC đã chi trả bồi thường cho các hộ dân bị ảnh hưởng do quá trình thi công là: 15,9 tỷ đồng, trong đó: huyện Trấn Yên 4,5 tỷ đồng, thành phố Yên Bái là 1,75 tỷ đồng, huyện Văn Yên là 9,7 tỷ đồng;
- Ngày 21/12/2017, VEC đã có văn bản số 4167/VEC-TCKT chấp thuận tạm ứng kinh phí bồi thường, hỗ trợ để GPMB dự án đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đoạn qua địa phận tỉnh Yên Bái cho Ban QLDA công trình Giao thông tỉnh Yên Bái (phục vụ việc chi trả tiền hỗ trợ chuyển đổi mục đích sử dụng đất và thu hồi ngoài biên GPMB) với số tiền là: 7.103.551.000 VNĐ;
- Ngoài ra, trong năm 2017, Ban QLDA Nội Bài - Lào Cai đã đôn đốc, chỉ đạo Nhà thầu thi công chi trả bổ sung cho các hộ bị ảnh hưởng trong quá trình thi công (đất đá vùi lấp ruộng vườn, ngập úng đất sản xuất…) thuộc địa phận xã Hoàng Thắng, huyện Văn Yên với tổng số tiền là: 293.050.218 VNĐ và cho 03 hộ thuộc xã Âu Lâu, thành phố Yên Bái bị ảnh hưởng do rung nứt với số tiền là: 2.689.000VNĐ (có biên bản kèm theo).
80. Cử tri tỉnh Bắc Ninh kiến nghị: Đề nghị mở rộng đường Quốc lộ 18, lắp đặt đèn chiếu sáng, biển báo giao thông, đèn tín hiệu, làm đường gom, xây dựng cầu vượt qua Quốc lộ 18 thuộc địa bàn xã Việt Hùng, huyện Quế Võ là khu vực trung tâm giữa khu công nghiệp Quế Võ 1 và Quế Võ 2, nơi tập trung cao độ lưu lượng người tham gia giao thông, hay bị ùn tắc giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 663/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018
Quốc lộ 18 qua địa bàn xã Việt Hùng thuộc tuyến QL.18 đoạn từ Km8 – Km10, hiện có quy mô đường cấp III, 2 làn xe, mặt đường thảm bê tông nhựa.
Tại cuộc họp với UBND tỉnh Bắc Ninh (Thông báo số 76/TB-BGTVT ngày 03/03/2017), Bộ GTVT đã thống nhất chủ trương và giao các cơ quan liên quan nghiên cứu việc bổ sung QL.18 đoạn Km0-Km20, trong đó có đoạn qua địa bàn xã Việt Hùng và các hạng mục liên quan vào dự án cải tạo, nâng cấp QL.18 đoạn Bắc Ninh – Uông Bí theo hình thức BOT. Tuy nhiên, theo ý kiến của Đoàn kiểm toán Nhà nước về chuyên đề quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo hình thức đối tác công tư, việc bổ sung hạng mục nêu trên là không phù hợp với quy định của Luật Xây dựng, vì vậy, Bộ GTVT đã có Văn bản số 7614/BGTVT-ĐTCT ngày 13/7/2017 gửi UBND tỉnh Bắc Ninh về việc dừng đầu tư bổ sung hạng mục QL.18 đoạn Km0-Km20 vào dự án cải tạo, nâng cấp QL.18 đoạn Bắc Ninh – Uông Bí theo hình thức BOT; Đồng thời, do nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT hạn chế nên chưa thể đầu tư mở rộng đoạn tuyến QL.18 nêu trên.
Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam kiểm tra cụ thể để sử dụng nguồn vốn bảo trì tăng cường duy tu đoạn tuyến nhằm đảm bảo khai thác êm thuận, an toàn. Bộ GTVT sẽ nghiên cứu đầu tư mở rộng tuyến đường khi huy động được nguồn lực, đáp ứng nhu cầu vận tải.
81. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Tuyến đường Quốc lộ 13 nằm trên địa bàn huyện Lộc Ninh từ ngã ba Liên Ngành đến cửa khẩu quốc tế Hoa Lư là một trong những tuyến đường giao thương chính giữa Việt Nam và Campuchia, tuy nhiên hiện tại tuyến đường này đã hư hỏng, lưu thông qua lại rất khó khăn. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu có kế hoạch đầu tư nâng cấp tuyến đường nói trên để tạo điều kiện cơ bản phát triển khu kinh tế của khẩu Hoa Lư và đảm bảo giao thương quốc tế được thuận tiện, thu hút nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Trả lời: Tại công văn số 421/BGTVT-KHĐT ngày 15/01/2018
Quốc lộ 13 đoạn qua địa phận tỉnh Bình Phước đã được UBND tỉnh Bình Phước đầu tư và quản lý, hiện đang khai thác sử dụng bình thường. Riêng đoạn tuyến thuộc địa phận huyện Lộc Ninh từ ngã ba Liên Ngành đến cửa khẩu quốc tế Hoa Lư dài khoảng 15km đã được Bộ GTVT tiếp nhận bàn giao từ UBND tỉnh Bình Phước để quản lý, khai thác và bảo trì theo quy định. Trong thời gian qua, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã bố trí khoảng 12,1 tỷ đồng, dự kiến KH năm 2018 bố trí khoảng 900 triệu đồng để bảo dưỡng thường xuyên.
Ngày 16/12/2015, Bộ GTVT đã có Công văn số 16658/BGTVT-KHĐT báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép đưa đoạn tuyến nêu trên vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, do nguồn vốn dự kiến được giao rất hạn chế nên trước mắt Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn để đầu tư đoạn tuyến này trong giai đoạn 2016-2020. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Bình Phước tiếp tục phối hợp với Bộ GTVT trong quá trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông.
82. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ GTVT sớm xúc tiến đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến đường Quốc lộ 14E; Quốc lộ 40B (đoạn từ đập Thủy điện sông Tranh lên Trung tâm hành chính huyện Nam Trà My); Quốc lộ 40G (nối thành phố Đà Nẵng với huyện Tây Giang), hiện nay, mặt đường hẹp, xuống cấp nghiêm trọng, tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra.
Trả lời: Tại công văn số 424/BGTVT-KHĐT ngày 15/01/2018
- Quốc lộ 14E: Quốc lộ 14E dài khoảng 90km đi qua 3 huyện Thăng Bình, Hiệp Đức, Phước Sơn. Hiện trạng cơ bản là cấp VI miền núi, có nhiều đoạn đã bị xuống cấp. Theo quy hoạch phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Quốc lộ 14E đạt tiêu chuẩn cấp IV, 2 làn xe, riêng đoạn từ Km0 - Km8+700 đạt tiêu chuẩn cấp III, 2 làn xe.
- Quốc lộ 40B: Quốc lộ 40B có chiều dài 209,1 km, trong đó: đoạn qua tỉnh Quảng Nam dài 147,4 km; đoạn qua tỉnh Kon Tum dài 61,7 km. Theo dự án đầu tư được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định 1144/QĐ-BGTVT ngày 26/4/2005, dự án có quy mô đường cấp IV, 2 làn xe, dài 209,1 km, tổng mức đầu tư khoảng 2.072 tỷ đồng, trước mắt đầu tư giai đoạn 1 khoảng 60 km (trong đó đoạn qua tỉnh Quảng Nam dài 46,1 km) với tổng mức đầu tư là 664 tỷ đồng. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1561/TTg-KTTH ngày 03/10/2006, Bộ GTVT đã chuyển về cho tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum thực hiện quản lý và thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, đến nay đã cơ bản hoàn thành giai đoạn 1. Do nguồn vốn khó khăn, giai đoạn 2 của dự án chưa được triển khai. Như vậy, QL40B đoạn qua tỉnh Quảng Nam dài 46,1 km đã được xây dựng cơ bản phù hợp theo quy hoạch, còn lại 101,3 km chưa được đưa vào cấp.
- Quốc lộ 14G: Quốc lộ 14G dài khoảng 66 km, từ Hòa Vang (Đà Nẵng) đến Đông Giang (Quảng Nam). Hiện trạng cơ bản là cấp V, có 2,95 km đạt tiêu chuẩn cấp IV. Theo quy hoạch được duyệt, QL14G đạt tiêu chuẩn cấp IV, 2 làn xe.
Để phù hợp quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT đã tổng hợp các dự án Quốc lộ 14E, quốc lộ 40B, Quốc lộ 14G vào danh mục các dự án đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 rất hạn chế, không thể cân đối bố trí cho các dự án.
Riêng đoạn tuyến QL40B từ đường ven biển tỉnh Quảng Nam đến giao với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, theo đề xuất của UBND tỉnh Quảng Nam, Bộ GTVT đã thống nhất báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chuyển mức vốn đầu tư xây dựng cầu vượt trực thông tại nút giao đường bộ, đường sắt tại vị trí giao cắt giữa QL1A và đường sắt Bắc Nam với đường trục chính nối từ cảng Tam Hiệp đến Khu công nghiệp ô tô Chu Lai Trường Hải và đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Nam đã được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 1978/QĐ-TTg ngày 14/10/2016 để đầu tư đoạn tuyến này. Hiện nay, Chính phủ đang xem xét, giải quyết.
83. Cử tri tỉnh Lai Châu kiến nghị: Đề nghị Bộ GTVT xem xét sớm có phương án nâng cấp Quốc lộ 4H. Vì là tuyến đường mới được nâng cấp từ tỉnh lộ lên quốc lộ (01/4/2017) hiện tại tuyến đường đã xuống cấp, nhiều xe tải trọng lớn thường xuyên đi lại, mặt khác đây là tuyến giao thông trọng điểm khu vực biên giới phía tây của tỉnh Lai Châu, vào mùa mưa thường xuyên sạt lở gây khó khăn trong giao thông đi lại của Nhân dân trong tỉnh.
Trả lời: Tại công văn số 631/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
Quốc lộ 4H đoạn Pắc Ma - Mường Tè; Mường Tè - Pa Tần thuộc địa phận tỉnh Lai Châu mới được nâng cấp từ đường tỉnh lên thành Quốc lộ. Việc đầu tư nâng cấp tuyến đường này như đề nghị của cử tri là cần thiết. Do các nguồn vốn trung hạn phân bổ cho Bộ GTVT giai đoạn 2016 - 2020 hết sức hạn chế nên chưa thể bố trí vốn để triển khai nâng cấp tuyến đường này. Bộ GTVT sẽ xem xét đầu tư vào giai đoạn sau năm 2020, khi Quốc hội, Chính phủ có chủ trương đầu tư.
Trước mắt, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra cụ thể, trên cơ sở đó có kế hoạch bố trí từ nguồn vốn bảo trì đường bộ để thực hiện công tác bảo trì, đảm bảo giao thông êm thuận, an toàn cho tuyến đường này.
84. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị đầu tư mở rộng Quốc lộ 2 đoạn qua xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Cử tri phản ảnh, đoạn đường này hẹp, nhiều khúc cua gấp, tầm nhìn hạn chế, gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 632/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
Quốc lộ 2 đoạn qua xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang mới được đầu tư nâng cấp mặt đường (do nguồn vốn hạn hẹp nên không cải tạo các yếu tố hình học của tuyến) thông qua Dự án Quản lý tài sản đường bộ Việt Nam (VRAMP) vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB), hoàn thành tháng 5/2016. Việc tiếp tục cải tạo các yếu tố hình học như mở rộng nền, mặt đường; cải tạo đường cong có bán kính nhỏ và tầm nhìn tuyến đường này như đề nghị của cử tri sẽ được xem xét thực hiện khi cân đối được nguồn vốn. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam thường xuyên theo dõi tình hình khai thác trên đoạn tuyến này, để bổ sung các hạng mục an toàn giao thông (nếu cầ thiết), nhằm đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
85. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri vùng B, huyện Đại Lộc đề nghị Chính phủ quan tâm hỗ trợ đầu tư xây dựng tuyến đường từ xã Duy Tân (huyện Duy Xuyên) qua xã Đại Thắng (huyện Đại Lộc) và nối Quốc lộ 14B [trên tuyến đường này có 02 cầu lớn: Cầu bắt qua sông Thu Bồn nối xã Duy Tân (huyện Duy Xuyên) với xã Đại Thắng (huyện Đại Lộc) và cầu nối xã Đại Minh với xã Đại Quang (huyện Đại Lộc)], nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân khu vực vùng B, huyện Đại Lộc (đây là vùng căn cứ địa cách mạng trong 02 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người dân nơi đây đã có nhiều cống hiến, hy sinh với Tổ quốc, nhưng hiện nay đời sống còn gặp nhiều khó khăn).
Trả lời: Tại công văn số 831/BGTVT- KHĐT ngày 23/01/2018
Những năm qua Chính phủ đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ các tỉnh xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, công trình cầu dân sinh v.v.. như: Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện nghèo theo Nghị quyết 30ª; Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới ..v..v... Bộ GTVT với trách nhiệm của mình cũng đã tích cực huy động các nguồn vốn ODA để hỗ trợ các địa phương như Dự án cầu giao thông nông thôn vốn Nhật Bản; các Dự án giao thông nông thôn 1,2,3 (vốn Ngân hàng Thế giới và Bộ Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh).
Hiện nay, Bộ GTVT đang thực hiện Chương trình xây dựng cầu dân sinh đảm bảo an toàn giao thông vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 với nội dung chính: Đầu tư xây dựng 3.102 cầu với tổng mức đầu tư là 8.335 tỷ đồng trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số thuộc 50 tỉnh/thành. Bộ GTVT đã triển khai các Đề án/Dự án thành phần thuộc Chương trình như:
1. Đề án xây dựng 186 cầu treo dân sinh đảm bảo an toàn giao thông trên phạm vi 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên với tổng vốn đầu tư là 931,7 tỷ đồng (tỉnh Quảng Nam được đầu tư 12 cầu/970md).
2. Dự án “Xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương” (LRAMP) với TMĐT 9.203,4 tỷ đồng . Dự án sẽ đầu tư xây dựng 2.272 cầu dân sinh với kinh phí 5.798 tỷ đồng (tỉnh Quảng Nam được đầu tư xây dựng 36 cầu với kinh phí 73,77 tỷ đồng).
Tuyến đường từ xã Duy Tân (huyện Duy Xuyên) qua xã Đại Thắng (huyện Đại Lộc) và nối Quốc lộ 14B mà cử tri tỉnh Quảng Nam đề nghị đầu tư thuộc hệ thống giao thông địa phương, vì vậy theo quy định của Luật giao thông đường bộ và Luật ngân sách nhà nước, kinh phí đầu tư xây dựng các công trình này thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương.
Bộ GTVT xin ghi nhận ý kiến của cử tri tỉnh Quảng Nam, đồng thời đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam chủ động cân đối ngân sách và huy động mọi nguồn vốn hợp pháp để từng bước đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông địa phương trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đi lại an toàn, thuận lợi cho nhân dân.
86. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị sớm nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 62 để thúc đẩy phát triển khu vực các huyện Đồng Tháp mười và phát triển vùng kinh tế cửa khẩu Quốc tế Bình Hiệp (Việt Nam - Campuchia).
Trả lời: Tại công văn số 641/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018
Theo quy hoạch, Quốc lộ 62 bắt đầu từ Tân An đến cửa khẩu Mộc Hóa, tỉnh Long An có chiều dài khoảng 76 km. Trong đó, đoạn từ Quốc lộ 1 đến Âu tầu Rạch Chanh (Km0-Km7) đã được Bộ GTVT đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn rất hạn chế, không thể cân đối bố trí cho dự án này.
Đoạn tuyến còn lại từ Âu tầu Rạch Chanh đến cửa khẩu Bình Hiệp (Km7-Km76): Dự án trước đây đã được Bộ GTVT phối hợp với địa phương nghiên cứu đầu tư theo hình thức BOT, đã lấy ý kiến tham vấn đầy đủ của các cơ quan liên quan (Tỉnh ủy Long An, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Long An, HĐND tỉnh Long An, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội vận tải ô tô tỉnh Long An) và đã được Thủ tướng Chính phủ có ý kiến tại Văn bản số 6381/VPCP-CN ngày 20/6/2017. Tuy nhiên, ngày 21/10/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT, trong đó yêu cầu đối với các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT chỉ áp dụng đối với đường mới để đảm bảo quyền lợi cho người dân, không đầu tư các dự án cải, tạo nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu. Do vậy, Bộ GTVT dừng nghiên cứu Dự án này đầu tư theo hình thức BOT để triển khai đầu tư vào thời điểm thích hợp khi cân đối được nguồn vốn.
87. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ xem xét đẩy nhanh tiến độ đầu tư thi công đường cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết.
Trả lời: Tại công văn số 522/BGTVT-ĐTCT ngày 16/01/2018
- Dự án đường cao tốc Phan Thiết – Dầu Giây (trước đây gọi là Dầu Giây – Phan Thiết) có chiều dài khoảng 98km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư khoảng 19.571 tỷ đồng. Dự án trước đây đã được Chính phủ và Ngân hàng Thế giới (WB) quyết định lựa chọn thí điểm nghiên cứu đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Tuy nhiên, Dự án chưa thực hiện được do giữa Chính phủ Việt Nam và WB chưa thống nhất một số vấn đề về cơ chế, chính sách.
- Ngày 22/11/2017 vừa qua, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIV đã thông qua Nghị quyết số 52/2017/QH14 về chủ trương đầu tư dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (Nghị quyết số 52/2017/QH14), trong đó có đoạn Phan Thiết – Dầu Giây sẽ được thực hiện đầu tư công theo hình thức đối tác công tư.
- Trên cơ sở kế hoạch tại Nghị quyết số 52/2017/QH14 của Quốc hội: Công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện Dự án từ năm 2017 và cơ bản hoàn thành năm 2021, Bộ GTVT đang tích cực thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư để sớm tiến hành tổ chức đấu thầu quốc tế lựa chọn nhà đầu tư theo quy định. Ngày 09/01/2018, Bộ GTVT đã có văn bản số 282/BGTVT-ĐTCT báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch triển khai dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và một số đề xuất trong giai đoạn chuẩn bị dự án. Theo kế hoạch, dự kiến sẽ hoàn thành lựa chọn nhà đầu tư, ký hợp đồng dự án vào khoảng cuối năm 2019; sau khi ký hợp đồng dự án sẽ sớm triển khai thi công đảm bảo kế hoạch đã báo cáo Chính phủ, Quốc hội.
88. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: Cử tri kiến nghị về việc giao thông trên địa bàn huyện gặp nhiều khó khăn do tuyến đường Quốc lộ 14C, các tuyến đường Tỉnh lộ đã xuống cấp nhưng chưa được tu sửa, nâng cấp kịp thời; do đó, người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đi lại và giao thương, vận chuyển hàng hóa. Nguyên nhân do nguồn thu ngân sách của tỉnh rất thấp, phải phụ thuộc vào nguồn bổ sung từ ngân sách Trung ương, cho nên không thể bố trí vốn để thực hiện nhiệm vụ này. Vì vậy, kính đề nghị Trung ương quan tâm, bố trí nguồn vốn để tỉnh đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trả lời: Tại công văn số 418/BGTVT-KHĐT ngày 15/01/2018
Xác định vai trò và tầm quan trọng của quốc lộ 14C, trong thời gian qua, Bộ GTVT đã đầu tư xây dựng giai đoạn 1 của quốc lộ 14C đoạn qua địa phận tỉnh Đắk Nông. Đồng thời, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét bố trí vốn cho Dự án bổ sung nhựa hóa mặt đường quốc lộ 14C (giai đoạn 2) đoạn qua tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Tuy nhiên, do nguồn vốn được giao rất hạn chế nên đến nay Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn để đầu tư quốc lộ 14C đoạn qua tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn 2016-2020. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông.
Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri về sự cần thiết phải đầu tư nâng cấp, cải tạo các tuyến đường địa phương. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, đối với hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Vì vậy, vốn đầu tư cho các tuyến đường tỉnh thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đắk Nông chủ động bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trong trường hợp Tỉnh có khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Đắk Nông báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương theo quy định, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.
89. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành trung ương tiếp tục quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện các tuyến Quốc lộ huyết mạch trên địa bàn tỉnh đã khai thác sử dụng từ lâu, do ảnh hưởng của mưa lũ hàng năm đã hư hỏng, xuống cấp; quy mô chưa phù hợp với quy hoạch và nhu cầu khai thác gồm:
- Quốc lộ 43 (đoạn Mộc Châu - Lóng Sập) là trục chính kết nối Quốc lộ 6 với cửa khẩu quốc gia Lóng Sập, đồng thời là tuyến đường có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển khu du lịch quốc gia Mộc Châu, đảm bảo an ninh quốc phòng và hợp tác quốc tế với nước bạn Lào;
- Quốc lộ 37 là trục đường kết nối Sơn La và các tỉnh Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Đông Bắc, phá thế độc đạo của Quốc lộ 6, do ảnh hưởng của mưa lũ hàng năm thường xuyên bị tắc nghẽn giao thông và chia cắt (như ảnh hưởng của cơn bão số 10 vừa qua, mưa lớn đã gây ngập lụt, tắc đường dài ngày, ảnh hưởng rất lớn đến việc đi lại trên tuyến Quốc lộ 6, nếu không có Quốc lộ 37 thì đi Sơn La phải đi vòng lên tỉnh Lai Châu quay xuống, tăng gần gấp đôi chiều dài quãng đường đi).
- Quốc lộ 279 có ý nghĩa quan trọng, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh khu vực Tây Bắc trong đó có các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu và phục vụ ổn định dân cư khu vực lòng hồ thuỷ điện Sơn La, đồng thời đây là trục đường chính kết nối các tỉnh Điện Biên, Sơn La với tuyến đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai.
Trả lời: Tại công văn số 633/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
1. Về Quốc lộ 43 đoạn thị trấn Mộc Châu - cửa khẩu Lóng Sập (Km80 - Km112):
Dự án được đầu tư hoàn thành năm 2003 theo tiêu chuẩn đường cấp V, VI miền núi, mặt đường láng nhựa. Hiện mặt đường bị rạn nứt, hư hỏng, lưu thông bị hạn chế. Bộ GTVT đã cho phép lập dự án đầu tư tại Quyết định số 1795/QĐ-BGTVT ngày 28/6/2010, đã hoàn thành bước lập dự án theo quy mô cấp IV miền núi. Theo Luật Đầu tư công, Bộ GTVT đã thẩm định báo cáo đề xuất đầu tư gửi Bộ KH & ĐT, Bộ Tài chính để thẩm định nguồn và đưa dự án này vào kế hoạch trung hạn giai đoạn 2016 - 2020. Do các nguồn vốn trung hạn phân bổ cho Bộ GTVT giai đoạn 2016 - 2020 hết sức hạn chế nên chưa thể bố trí vốn để triển khai nâng cấp tuyến đường này.
2. Về Quốc lộ 37 trên địa phận tỉnh Sơn La:
Quốc lộ 37 qua địa phận tỉnh Sơn La, gồm các đoạn:
- Đoạn Lũng Lô - Mường Cơi: Được đầu tư xây dựng với tiêu chuẩn cấp IV miền núi có châm chước, hoàn thành năm 2010.
- Đoạn Mường Cơi - Gia Phù: Được đầu tư xây dựng với tiêu chuẩn cấp IV miền núi châm chước, hoàn thành năm 2002.
Do được đầu tư đã lâu, với tiêu chuẩn thấp nên các đoạn tuyến này hiện khai thác bị hạn chế.
- Đoạn Gia Phù - Cò Nòi: Giai đoạn 1 được đầu tư xây dựng, hoàn thành năm 2002, tiêu chuẩn cấp IV miền núi châm chước với mặt đường láng nhựa. Do nhiều phương tiện vận tải nặng lưu thông trong quá trình nâng cấp QL6, các công trình kiên cố hóa chưa được xây dựng và bị sụt lở do ảnh hưởng của mưa bão đã gây ra nên một số đoạn bị hư hỏng, đi lại khó khăn. Bộ GTVT đã phê duyệt Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn Gia Phù - Cò Nòi (giai đoạn 2) với tổng mức đầu tư (TMĐT) 2.655 tỷ đồng. Trong giai đoạn 2012 - 2016 chỉ bố trí vốn để đầu tư đoạn qua đèo Chẹn với TMĐT 482 tỷ đồng. Tuy nhiên, do nguồn vốn rất khó khăn nên trong kế hoạch trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 mới bố trí được 211/482 tỷ đồng để thực hiện.
- Đoạn Cò Nòi - Nà Ớt: Mới chuyển từ Đường tỉnh 113 dài 32,343km thành Quốc lộ 37 kéo dài. Hiện nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đang tổng hợp các tuyến đường mới được nâng cấp từ đường địa phương lên thành Quốc lộ để làm thủ tục bổ sung vào Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ GTVT sẽ xem xét việc triển khai đầu tư xây dựng đoạn tuyến này khi cân đối được nguồn vốn.
3. Về Quốc lộ 279 qua địa phận tỉnh Sơn La:
Quốc lộ 279 qua địa phận tỉnh Sơn La, gồm các đoạn:
- Đoạn Cáp Na - Pá Uôn: Đã được đầu tư xây dựng, hoàn thành 2005 với tiêu chuẩn đường cấp V, hiện khai thác bị hạn chế. Bộ GTVT đã thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công để đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020. Tuy nhiên, nguồn vốn bố trí giai đoạn trung hạn (2016 - 2020) hết sức hạn chế nên hiện chưa thể đầu tư Dự án này.
- Đoạn Pá Uôn - Đèo Chiến Thắng (bao gồm cả cầu Pá Uôn): Đã được đầu tư xây dựng, hoàn thành 2010, tiêu chuẩn cấp IV châm chước. Hiện đang khai thác bình thường.
Việc đầu tư nâng cấp các tuyến đường trên (Quốc lộ 43, Quốc lộ 37 và Quốc lộ 279) như đề nghị của cử tri là cần thiết. Tuy nhiên, do các nguồn vốn trung hạn phân bổ cho Bộ GTVT giai đoạn 2016 - 2020 hết sức hạn chế nên chưa thể bố trí vốn để triển khai nâng cấp các tuyến đường này. Bộ GTVT sẽ xem xét đầu tư, khi được Quốc hội, Chính phủ bổ sung nguồn vốn. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam bố trí vốn để sửa chữa, bảo trì bảo đảm giao thông êm thuận và an toàn.
90. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri kiến nghị Nhà nước đầu tư nâng cấp tuyến quốc lộ N1 đoạn từ huyện Hồng Ngự qua xã Thường Thới Hậu A, vì tuyến đường này hiện đã xuống cấp gây khó khăn trong việc đi lại, lưu thông.
Trả lời: Tại công văn số 642/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018
Bộ GTVT đã hoàn thiện các thủ tục theo quy định của Luật Đầu tư công để đưa Dự án nâng cấp tuyến N1 đoạn qua địa phận tỉnh Đồng Tháp vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 với tổng mức đầu tư 1.368 tỷ đồng. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 rất hạn chế, không thể cân đối bố trí cho dự án này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung nguồn vốn dự phòng của Chính phủ giai đoạn 2016-2020 để triển khai một số công trình quan trọng, cấp bách của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Khi được bổ sung nguồn vốn, Bộ GTVT sẽ xem xét đến việc đầu tư một số dự án quốc lộ quan trọng trên địa phận tỉnh Đồng Tháp, trong đó có tuyến N1.
91. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Sớm đầu tư nâng cấp QL.4B từ Quảng Ninh đi Lạng Sơn, hiện nay đường đã xuống cấp không đáp ứng yêu cầu đi lại và đầu tư phát triển (dự án này đã được Chính phủ đưa vào chương trình đầu tư giai đoạn trung hạn).
Trả lời: Tại công văn số 288/BGTVT-KHĐT ngày 10/01/2018
Quốc lộ 4B đoạn qua tỉnh Quảng Ninh dài 37 km (Km70-Km107), quy mô đường cấp IV miền núi, 2 làn xe, mặt đường láng nhựa đã bị xuống cấp. Bộ GTVT đã giao Sở GTVT Quảng Ninh lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư dự án, quy mô đường cấp III, 2 làn xe, kinh phí đầu tư khoảng 881 tỷ đồng và trình Thủ tướng Chính phủ đưa dự án vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, do nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế, không thể cân đối để thực hiện đầu tư dự án này.
Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sử dụng nguồn vốn bảo trì để tăng cường duy tu, sửa chữa tuyến QL.4B đoạn qua tỉnh Quảng Ninh nhằm đảm bảo khai thác êm thuận, an toàn, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong khu vực. Khi cân đối được nguồn lực, Bộ GTVT sẽ thực hiện đầu tư tuyến đường theo chủ trương đầu tư đã lập.
92. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét bố trí vốn để khởi công thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp QL.3B đoạn Km66+600 - Km125, dài 58,4 km và dự án cải tạo nâng cấp QL.31 đoạn Km100 - Km161 (Hữu Sản - Bản Chắt) dài 61 km đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư. Cho phép đầu tư xây dựng thảm tăng cường mặt đường đoạn Km33 - Km47 và Km58 - Km80 QL.4B (đi sang tỉnh Quảng Ninh).
Trả lời: Tại công văn số 627/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
Về đề nghị bố trí vốn để khởi công các dự án cải tạo, nâng cấp QL.3B đoạn Km66+600 - Km125, dự án cải tạo nâng cấp QL.31 đoạn Hữu Sản - Bản Chắt và cho phép đầu tư xây dựng thảm tăng cường mặt đường QL.4B đoạn Km33 - Km47 và Km58 - Km80.
- QL.3B đoạn Km66+600 - Km125, dài 58km, đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp vào tháng 7/2008, quy mô đường cấp IV miền núi, tổng mức đầu tư 1010 tỷ đồng sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ, dự án khởi công năm 2010, dự kiến hoàn thành năm 2013.
- QL.31 đoạn Hữu Sản – Bản Chắt, dài 61km, đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp vào tháng 7/2008, quy mô đường cấp IV miền núi, tổng mức đầu tư 1010 tỷ đồng sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ, dự án khởi công năm 2010, dự kiến hoàn thành năm 2013.
Các dự án trên bị đình hoãn từ tháng 4/2011 theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và do nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế, không thể cân đối để thực hiện đầu tư các dự án này.
- Quốc lộ 4B đoạn Km33 - Km47 và Km58 - Km80, quy mô đường cấp IV miền núi, 2 làn xe, mặt đường láng nhựa đã bị xuống cấp. Bộ GTVT đã giao Sở GTVT Lạng Sơn lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư dự án, quy mô đường cấp IV, 2 làn xe, kinh phí đầu tư khoảng 455 tỷ đồng và trình Thủ tướng Chính phủ đưa dự án vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, do nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế, không thể cân đối để thực hiện đầu tư dự án này.
Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sử dụng nguồn vốn bảo trì để tăng cường duy tu, sửa chữa các tuyến đường QL.3B, QL.31 và QL.4B nêu trên, đảm bảo khai thác an toàn, đáp ứng nhu cầu đi lại tối thiểu của nhân dân trong khu vực. Khi cân đối được nguồn vốn, Bộ GTVT sẽ tiếp tục đầu tư các tuyến đường theo dự án được duyệt trước đây và chủ trương đầu tư đã lập.
93. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị Bộ GTVT xem xét bổ sung nguồn vốn để thực hiện dự án, thanh toán khối lượng đã thực hiện của dự án cải tạo nền mặt đường và công trình đoạn từ Km8 - Km29 và từ Km40 - Km66 QL.4A được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định 505/QĐ-BGTVT ngày 24/02/2014, đường cấp IV miền núi, tổng chiều dài 43,74 km, tổng mức đầu tư 489,0 tỷ đồng. Dự án được khởi công tháng 3/2015 và đã triển khai thi công đạt trên 70% khối lượng, tuy nhiên đến nay dự án mới được Bộ GTVT bố trí 166,5 tỷ đồng (đạt 34% so với tổng mức đầu tư dự án). Như vậy, nhu cầu vốn cho dự án còn thiếu rất lớn, cần bổ sung vốn là 322,5 tỷ đồng (chiếm 66% so với tổng mức đầu tư được duyệt).
Trả lời: Tại công văn số 627/BGTVT-KHĐT ngày 18/01/2018
Về việc bổ sung nguồn vốn để tiếp tục đầu tư và thanh toán khối lượng đã thực hiện của dự án cải tạo nền mặt đường và công trình QL.4A đoạn Km8 - Km29 và Km40 - Km66:
QL.4A đoạn Km8 - Km29 và Km40 - Km66 được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư dự án tại Quyết định số 505/QĐ-BGTVT ngày 24/02/2014, quy mô đường cấp IV miền núi, tổng mức đầu tư 489 tỷ đồng sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. Dự án khởi công tháng 3/2015, đến năm 2017 đã bố trí cho công trình là 166,5 tỷ đồng.
Theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tiêu chí phân bổ nguồn vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 chỉ chủ yếu tập trung trả nợ đọng xây dựng cơ bản, hoàn trả nguồn vốn ứng trước và vốn đối ứng ODA, không còn kinh phí để đầu tư hoàn thành 27 dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đang triển khai dở dang, trong đó có dự án QL.4A đoạn Km8 - Km29 và Km40 - Km66.
Để tiếp tục triển khai dự án, Bộ GTVT đã có văn bản số 11707/BGTVT-KHĐT ngày 18/10/2017 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ về phương án sử dụng nguồn vốn dự phòng trung hạn 2016-2020 chưa phân bổ của Bộ GTVT, trong đó dự kiến tiếp tục bố trí một phần vốn (220 tỷ đồng) cho dự án để thi công đến điểm dừng kỹ thuật, đảm bảo điều kiện an toàn giao thông, phát huy hiệu quả vốn đầu tư đã thực hiện.
94. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Chính phủ quan tâm, xem xét, hỗ trợ kinh phí cho tỉnh Bình Định sớm hoàn thành Dự án nâng cấp Quốc lộ 19 đoạn từ Cảng Quy Nhơn đến giao Quốc lộ 1 để khắc phục tình trạng hiện nay các loại xe tải đến Cảng Quy Nhơn phải đi vào nội thành, gây mất an toàn giao thông, ảnh hưởng rất lớn đến việc đi lại của người dân trong thành phố.
Trả lời: Tại công văn số 1188/BGTVT-KHĐT ngày 31/01/2018
Dự án Quốc lộ 19 đoạn từ cảng Quy Nhơn đến giao Quốc lộ 1 (QL1), dài 17 km, tổng mức đầu tư khoảng 5.300 tỷ đồng, phân kỳ đầu tư theo 3 giai đoạn và được Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Bình Định là cấp quyết định đầu tư và thực hiện theo cơ chế 70% nguồn vốn ngân sách Trung ương và 30% ngân sách địa phương đối với tổng mức đầu tư giai đoạn I của dự án. Trong quá trình triển khai, theo đề nghị của UBND tỉnh Bình Định, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1186/TTg-KTTH ngày 24/7/2015, cho phép điều chỉnh phân kỳ đầu tư dự án từ 3 giai đoạn thành 2 giai đoạn và thực hiện theo cơ chế 70% nguồn vốn ngân sách Trung ương và 30% ngân sách địa phương đối với toàn bộ dự án, đồng thời giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT) chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ GTVT bố trí phần vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ cho dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT, đồng thời tổng hợp dự án vào danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP) vào giai đoạn 2016 - 2020 khi có chủ trương phát hành trái phiếu của cấp có thẩm quyền.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã tổng hợp một phần vốn của dự án vào danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước (NSNN) giai đoạn 2016 - 2020 tại văn bản số 1907/BGTVT-KHĐT ngày 24/02/2016 gửi Bộ KH&ĐT để trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn NSNN giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT chỉ đủ để trả nợ đọng xây dựng cơ bản, hoàn ứng trước kế hoạch và đáp ứng một phần vốn đối ứng các dự án ODA..., do vậy việc bố trí vốn cho dự án từ nguồn NSNN không thể thực hiện được.
Đối với nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT, thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Bộ GTVT đã tổng hợp trình và được Chính phủ chấp thuận Quốc hội thông qua danh mục các dự án, theo đó nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016 - 2020 được ưu tiên bố trí cho các dự án đường cao tốc Bắc Nam (phía Đông). Vì vậy, việc bố trí vốn cho dự án từ nguồn TPCP là không thể thực hiện được.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 8350/VPCP-KTN ngày 09/8/2017, Bộ GTVT đã có văn bản số 11707/BGTVT-KHĐT ngày 18/10/2017 gửi Bộ KH&ĐT về đề xuất danh mục sử dụng dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 nguồn vốn NSNN, trong đó dự kiến bố trí cho dự án khoảng 1.300 tỷ đồng để hoàn trả vốn đã ứng trước kế hoạch. Hiện nay, Bộ KH&ĐT đang xem xét, xử lý.
95. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/4/2017 của Bộ GTVT quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ: Khi đổi giấy phép lái xe nước ngoài sang giấy phép lái xe Việt Nam, trường hợp phát hiện có nghi vấn, cơ quan cấp đổi giấy phép lái xe có văn bản đề nghị đại sứ quán, lãnh sự quán của quốc gia cấp giấy phép lái xe tại Việt Nam xác minh. Thực hiện Thông tư, Sở Giao thông vận tải Hà Tĩnh có văn bản đề nghị xác minh đều không được đại sứ quán nước cấp giấy phép lái xe tại Việt Nam trả lời. Để tháo gỡ khó khăn, đề nghị Bộ GTVT sửa đổi Điều 42 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT theo hướng giao nhiệm vụ cho Tổng cục đường bộ Việt Nam làm đầu mối xác minh giấy phép lái xe khi các Sở Giao thông Vận tải địa phương yêu cầu.
Trả lời: Tại công văn số 797/BGTVT-TCCB ngày 23/01/2018
Việc quy định các Sở Giao thông vận tải đổi giấy phép lái xe nước ngoài sang giấy phép lái xe Việt Nam đối với khách du lịch nước ngoài lái xe vào Việt Nam như tại Điều 42 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách du lịch đến Việt Nam nếu có nhu cầu đổi giấy phép lái xe nước ngoài sang giấy phép lái xe Việt Nam. Nếu giao cho Tổng cục đường bộ Việt Nam làm đầu mối xác minh giấy phép lái xe khi các Sở Giao thông Vận tải yêu cầu sẽ làm phát sinh thủ tục và thời gian. Thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ làm việc với đại sứ quán, lãnh sự quán các nước tại Việt Nam để đề nghị đại sứ quán, lãnh sự quán các nước tạo điều kiện sớm trả lời xác minh giấy phép lái xe khi có đề nghị xác minh giấy phép lái xe từ các Sở Giao thông vận tải địa phương.
96. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Xem xét điều chỉnh Quyết định 4927/QĐ-BGTVT ngày 25/12/2014 về việc ban hành hướng dẫn lựa chọn quy mô kỹ thuật đường giao thông nông thôn phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Cụ thể là: quy định nâng độ dày cấp phối đường và độ dày bê tông đối với đường cấp C phù hợp với điều kiện các địa phương để nâng cao chất lượng xây dựng đường.
Trả lời: Tại công văn số 872/BGTVT-KHCN ngày 24/01/2018
“Hướng dẫn lựa chọn quy mô kỹ thuật đường giao thông nông thôn phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020” ban hành kèm theo Quyết định số 4927/QĐ-BGTVT ngày 25/12/2014 được Bộ GTVT xây dựng trên cơ sở ý kiến đề xuất của 40 tỉnh/thành phố, các cơ quan, đơn vị và các chuyên gia có liên quan, nội dung của Hướng dẫn theo hướng mở, mỗi loại đường có thể lựa chọn nhiều cấp kỹ thuật khác nhau và mỗi cấp kỹ thuật của đường có thể lựa chọn nhiều loại kết cấu mặt đường khác nhau để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của các địa phương trên cả nước.
Theo nội dung Hướng dẫn nêu trên đường giao thông nông thôn thuộc loại đường ít xe nên kết cấu mặt đường cho phép lấy theo kết cấu định hình và có thể tham khảo một số các kết cấu điển hình tại Bảng 4, Bảng 5. Ngoài ra, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng địa phương, cấp hạng kỹ thuật của tuyến đường, chủ đầu tư có thể thực hiện việc khảo sát lưu lượng, thành phần dòng xe để tính toán, lựa chọn loại vật liệu, chiều dày kết cấu mặt đường phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế kỹ thuật, nâng cao chất lượng công trình.
Để thuận lợi trong quá trình xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn phục vụ chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tỉnh Quảng Ninh có thể xem xét giao cho cơ quan chuyên môn nghiên cứu, xây dựng bộ thiết kế định hình trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để áp dụng cho tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh và tuân thủ các quy định hiện hành.
97. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị: Đề nghị Chính phủ ưu tiên phê duyệt Dự án cải tạo Quốc lộ 4C từ Thành phố Hà Giang đi huyện Mèo Vạc (Km12 - Km166), với tổng mức đầu tư 2.298 tỷ đồng (Dự án đã được Bộ Giao thông Vận tải cho phép lập dự án đầu tư tại Quyết định số 1742/QĐ-BGTVT ngày 25/6/2010; nhưng chưa phê duyệt dự án này do chưa bố trí được nguồn vốn) và đầu tư bố trí nguồn vồn cải tạo nâng cấp tuyến đường Yên Minh - Mậu Duệ - Mèo Vạc (ĐT.176); dự án có chiều dài 47Km (điểm đầu tại Km100, Quốc lộ 4C; điểm cuối thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc).
Hiện nay, hai tuyến đường này đã bị xuống cấp trầm trọng, nhiều đoạn có độ dốc lớn, bán kính đường cong nhỏ, tầm nhìn bị hạn chế và thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. Đây là hai tuyến đường quan trọng, đảm bảo an toàn giao thông cho 4 huyện vùng cao núi đá, đồng thời kết nối khu vực trọng điểm về Quốc phòng - An ninh và cứu nạn khi cần thiết, kết hợp với phát triển du lịch danh lam thắng cảnh của vùng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn và kết nối mạng lưới giao thông vùng Tây Bắc nói chung.
Trả lời: Tại công văn số 2024/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
Quốc lộ 4C có điểm đầu tại TP. Hà Giang, điểm cuối là xã Niêm Sơn - huyện Mèo Vạc (giáp với Cao Bằng), tổng chiều dài 200km, đi qua vùng núi cao hết sức hiểm trở, địa hình bị chia cắt mạnh. Từ năm 2003 đến nay bằng các nguồn vốn khác nhau như trái phiếu Chính phủ (TPCP), ngân sách Nhà nước (NSNN), Bộ GTVT đã đầu tư được khoảng 40km/200km (các đoạn qua thị trấn, trung tâm xã) đạt tiêu chuẩn đường cấp IV, có một số đoạn đạt tiêu chuẩn đường cấp III miền núi, mặt đường láng nhựa, các đoạn mới được đầu tư này đang được sử dụng bình thường. Các đoạn khác (khoảng 160km), được cải tạo, nâng cấp hoàn thành năm 2003 với tiêu chuẩn đường cấp VI (mặt đường 3,5m, nền đường 5m), nhiều cua gấp (bán kính nhỏ), kết cấu mặt đường đá dăm láng nhựa. Riêng đoạn từ Quản Bạ đến cuối tuyến thuộc khu vực Công viên địa chất toàn cầu là khu vực cần bảo tồn và tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về môi trường.
Để phát triển kinh tế, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh, việc đầu tư nâng cấp Quốc lộ 4C là cần thiết, tuy nhiên để đưa tuyến vào cấp theo quy hoạch cần nguồn kinh phí rất lớn (khoảng 3.000 tỷ đồng). Vì vậy, Bộ GTVT đã ưu tiên lập và phê duyệt dự án một số đoạn để có thể sớm đầu tư xây dựng như: đoạn Km57 - Km64, huyện Quản Bạ (Quyết định số 2417/QĐ-BGTVT ngày 18/8/2010); đoạn tránh thị trấn Đồng Văn (Quyết định số 570/QĐ-BGTVT ngày 9/3/2010). Những đoạn còn lại đã được Bộ GTVT cho phép lập dự án đầu tư (Quyết định số 1742/QĐ-BGTVT ngày 25/6/2010), hiện đã cơ bản hoàn thành công tác lập dự án, do chưa có nguồn vốn nên chưa phê duyệt dự án. Bộ GTVT cũng đã đưa các dự án này vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn hết sức khó khăn chưa bố trí được. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sử dụng vốn bảo trì đường bộ để xử lý các đoạn nguy hiểm như mở cua, hạ dốc, bổ sung biển báo, hộ lan, gương cầu trên Quốc lộ 4C để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác.
98. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Hiện nay đoạn đường QL.21 từ cầu Tập đến cầu Sắt có độ dài 1 km dù đã làm cống thoát nước nhưng chưa hoàn thiện hết, do đó đây là đoạn bị ngập nước nặng mỗi khi trời mưa, gây nguy hiểm đến tính mạng người tham gia giao thông. Cử tri đề nghị Chính phủ hỗ trợ kinh phí đầu tư sửa chữa nâng cấp tuyến để phục vụ nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế của địa phương; công tác giải phóng mặt bằng đoạn gần cầu Tâm QL.1, có những trường hợp các hộ gia đình đã cắt đất làm đường nhưng chưa được đền bù hết. Bên cạnh đó, cử tri cũng đề nghị Chính phủ cho làm đường gom cạnh đường sắt phía Nam thị trấn Bình Lục tại khu vực có đường sắt Bắc Nam đi qua, ví dụ ở các khu vực thuộc huyện Bình Lục vì các hộ dân không có đường đi lại, nên họ thường đi lại khu vực gần đường tàu, có nguy cơ xảy ra tai nạn rất cao.
Trả lời: Tại công văn số 2120/BGTVT-KCHT ngày 02/3/2018
1. Về việc hỗ trợ kinh phí đầu tư sửa chữa nâng cấp tuyến đường QL.21 từ cầu Tập đến cầu Sắt để phục vụ nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế của địa phương:
Ngày 28/12/2017, Bộ GTVT đã có Quyết định số 3675/QĐ-BGTVT phê duyệt kế hoạch bảo trì hệ thống quốc lộ năm 2018, theo đó tuyến QL.21 đoạn từ Km132-Km132+500 (khu vực cầu An Tập) đã được bố trí kinh phí sửa chữa. Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục ĐBVN và các đơn vị liên quan khẩn trương triển khai thực hiện công tác sửa chữa nâng cấp tuyến đường để đảm bảo an toàn giao thông.
2. Về việc đền bù công tác giải phóng mặt bằng đoạn gần cầu Tâm QL.1:
Trên tuyến QL.1 trên địa bàn tỉnh Hà Nam không có cầu Tâm, chỉ có cầu Tâng tại Km241+843,9 thuộc Dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng QL.1, đoạn Phủ Lý (Km235+885) - cầu Đoan Vĩ (Km251+000). Dự án được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 1747/QĐ-BGTVT ngày 18/6/2009, thi công hoàn thành và bàn giao cho Cục QLĐB I đưa vào khai thác sử dụng năm 2012. Công tác GPMB được tách thành tiểu dự án GPMB và giao cho UBND tỉnh Hà Nam làm chủ đầu tư tiểu dự án (cơ quan được giao trực tiếp thực hiện và phối hợp với Sở GTVT Hà Nam là UBND huyện Thanh Liêm).
Để xác định kiến nghị của cử tri với nội dung trên có thuộc phạm vi cầu Tâng, Bộ GTVT đã có Văn bản số 361/CQLXD-ĐB1 ngày 05/2/2018, trong đó yêu cầu Sở GTVT Hà Nam báo cáo về nội dung trên. Thực hiện chỉ đạo của Bộ GTVT, ngày 09/02/2018 Sở GTVT Hà Nam đã có Văn bản số 190/SGTVT-VP gửi UBND huyện Thanh Liêm đề nghị rà soát công tác GPMB khu vực cầu Tâng. Hiện nay, UBND huyện Thanh Liêm đang thực hiện kiểm tra, rà soát. Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Sở GTVT Hà Nam đôn đốc và phối hợp với UBND huyện Thanh Liêm để sớm có báo cáo để trả lời cử tri tỉnh Hà Nam.
3. Về việc làm đường gom cạnh đường sắt phía Nam thị trấn Bình Lục tại khu vực có đường sắt Bắc Nam đi qua:
Tuyến đường sắt Hà Nội – thành phố Hồ Chí Minh (đường sắt quốc gia) đoạn đi qua địa phận tỉnh Hà Nam với chiều dài 31,280 km (từ Km40+850 đến Km72+130); đoạn đường sắt phía Nam thị trấn Bình Lục với chiều dài 665 m (từ Km66+800 đến Km67+465), có 26 lối đi tự mở:
- Ngày 20/3/2012, Bộ GTVT có Quyết định số 595/QĐ-BGTVT, trong đó cho phép Tổng công ty ĐSVN được lập dự án đầu tư xây dựng công trình “Xây dựng hàng rào, đường gom (phần bổ sung) theo Quyết định 1856, giai đoạn 3”, quy mô, mục tiêu đầu tư xây dựng hàng rào, đường gom để đóng các lối đi tự mở trên phạm vi đường sắt quốc gia.
- Ngày 25/8/2015, Tổng công ty ĐSVN có báo cáo số 2465/BC-ĐS đề xuất chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng công trình “Xây dựng hàng rào, đường gom (phần bổ sung) theo Quyết định 1856, giai đoạn 3”, trong đó có đề xuất tỉnh Hà Nam: Xây dựng 3.412 m đường gom và hàng rào, xóa bỏ 63 lối đi tự mở, đoạn đường sắt (từ Km66+800 đến Km67+520) phía Nam thị trấn Bình Lục xây dựng 720 m đường gom và hàng rào, xóa bỏ 28 lối đi tự mở.
Hiện nay, Bộ GTVT đã có văn bản đề nghị Chính phủ bố trí nguồn vốn thực hiện việc nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội – thành phố Hồ Chí Minh và các công trình phụ trợ có liên quan nhằm đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, đường bộ. Khi nguồn vốn được xác định, Bộ GTVT sẽ ưu tiên đầu tư hạng mục đoạn đường gom, hàng rào đường gom này để triển khai thực hiện sớm.
99. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Hiện nay các tuyến quốc lộ 27, 28, 55 đã xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng đến việc vận chuyển, tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông, nhất là một số đoạn đi qua thị trấn, trung tâm xã trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nhưng không nằm trong các dự án được bố trí vốn trung hạn giai đoạn 2017 - 2020, cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm xem xét trình cấp có thẩm quyền bố trí bổ sung vốn trung hạn để nâng cấp, mở rộng hoặc bảo dưỡng các tuyến đường này.
Trả lời: Tại công văn số 1954/BGTVT-KHĐT ngày 28/02/2018
Xác định vai trò quan trọng của các tuyến quốc lộ qua địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đặc biệt là quốc lộ 27, trong thời gian qua, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét bố trí vốn để đầu tư hoàn thành công trình quốc lộ 27 đoạn tránh sân bay Liên Khương, tỉnh Lâm Đồng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2018-2020. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn, Bộ GTVT sẽ triển khai dự án theo quy định.
Do nguồn vốn được giao rất hạn chế nên đến nay Bộ GTVT chưa thể cân đối nguồn vốn để nâng cấp, mở rộng các tuyến quốc lộ 27, 28 và 55 đoạn qua tỉnh Lâm Đồng. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông cho các tuyến quốc lộ nêu trên.
100. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ sớm đầu tư giai đoạn 2, đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai và kết nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai với tỉnh Lai Châu để đáp ứng nhu cầu vận tải hiện nay.
Trả lời: Tại công văn số 2204/BGTVT-KHĐT ngày 05/3/2018
1. Về đầu tư giai đoạn 2 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai: Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai và kết nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai đã được Bộ GTVT đầu tư đưa vào khai thác toàn tuyến vào tháng 10/2014, trong đó đoạn Nội Bài - Yên Bái theo quy mô 4 làn xe cao tốc; đoạn Yên Bái - Lào Cai theo quy mô 2 làn xe cao tốc. Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của UBND tỉnh Lào Cai về sự cần thiết sớm đầu tư mở rộng đoạn Yên Bái - Lào Cai theo quy mô 4 làn cao tốc. Hiện nay, Bộ GTVT đang tiếp tục thực hiện đầu tư mở rộng 25 km từ 2 làn xe lên 4 làn xe cao tốc các đoạn có: độ dốc dọc ≥ 4%, đường cong có tầm nhìn hạn chế, đoạn có chiều dài vượt xe lớn và đầu tư bổ sung một số hạng mục nhằm tăng cường an toàn giao thông đoạn Yên Bái - Lào Cai, hoàn thành tháng 6/2017. Các đoạn còn lại, Bộ GTVT sẽ tiếp tục huy động nguồn lực để đầu tư mở rộng đạt tiêu chuẩn cao tốc 4 làn xe vào thời điểm thích hợp.
2. Về kết nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai với tỉnh Lai Châu:
Theo quy hoạch được duyệt tại Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ, tuyến đường nối Lai Châu với cao tốc Nội Bài - Lào Cai là đường cấp III, 2 làn xe. Do các nguồn ngân sách hiện nay rất khó khăn, không thể bố trí xây dựng các tuyến mới được. Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép đưa dự án đường nối Lai Châu với cao tốc Nội Bài - Lào Cai vào danh mục vay vốn Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) giai đoạn 2015 - 2017. Đến nay, Bộ GTVT đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi (Pre-FS) và Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ KH&ĐT thẩm định báo cáo này. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Báo cáo Pre-FS, Bộ GTVT sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh Điện Biên, Lai Châu triển khai các bước tiếp theo.
101. Cử tri tỉnh Hậu Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh việc nâng cấp, mở rộng QL.1A (đoạn từ Cầu Đất Sét – Km231 đến Km282 thuộc địa phận xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang) không có hệ thống cống thoát nước gây ngập úng vào mùa mưa. Kiến nghị Bộ GTVT chỉ đạo Tổng cục ĐBVN có biện pháp khắc phục.
Trả lời: Tại công văn số 2085/BGTVT-KCHT ngày 02/09/2018
Quốc lộ 1, đoạn từ cầu Đất Sét (Km2080+151) đến Km2100+000 nằm trên địa phận xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang thuộc Dự án đầu tư xây dựng mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Cần Thơ-Phụng Hiệp (Km2078+317-Km2100+000) theo hình thức Hợp đồng BOT do Công ty TNHH BOT Cần Thơ-Phụng Hiệp là doanh nghiệp dự án. Theo phương án xây dựng đã được phê duyệt tại Quyết định số 1683/QĐ-BGTVT ngày 28/7/2011, hạng mục hệ thống thoát nước dọc được đầu tư xây dựng đồng bộ tại các đoạn qua đô thị, khu dân cư (bố trí 33 đoạn rãnh dọc với chiều dài 10.759,96 md).
Trong quá trình khai thác sử dụng, do việc xây nhà và khu công nghiệp hai bên đoạn tuyến nêu trên đã làm xuất hiện một số vị trí bị ngập nước, như sau: Km2081+532-Km2081+795, Km2082+218-Km2083+538, Km2083+612-Km2083+860, Km2085+860-Km2087+500, Km2080+150 (dài 50m), Km2089+230 (dài 195m), Km 2094+227 (dài 189m).
Đặc biệt, đoạn Km2082+218-Km2083+538 thuộc Khu công nghiệp Tân Phú Thạnh bị ngập úng nghiêm trọng nhất. Để giải quyết tình trạng ngập úng trên, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam yêu cầu Nhà đầu tư nghiên cứu, báo cáo các cấp có thẩm quyền cho phép xây dựng bổ sung các đoạn rãnh mới và bổ sung kinh phí vào phương án tài chính của hợp đồng theo quy định, đồng thời yêu cầu đơn vị bảo trì của Nhà đầu tư thường xuyên nạo vét hệ thống rãnh dọc hiện hữu, khơi thông tạm thời các vị trí ngập úng để khắc phục tình trạng ngập úng, đảm bảo việc đi lại thuận lợi cho các phương tiện giao thông.
102. Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, Bộ GTVT và các Bộ, ngành Trung ương quan tâm bố trí vốn để sớm triển khai xây dựng cầu Bến Mới và cầu Đống Cao; từng bước cho lập dự án đầu tư các cầu còn lại trên quốc lộ qua các sông lớn; đầu tư nâng cấp QL21B đoạn Nam Định - Phủ Lý (khoảng 20km) lên cao tốc theo quy hoạch đã được duyệt vào giai đoạn 2017-2020 và nâng cấp TL489C vào QL39B nối sang Thái Bình qua phà Sa Cao và nâng cấp TL485 vào QL37C nối với Ninh Bình.
Trả lời: Tại công văn số 2150/BGTVT-KHĐT ngày 05/3/2018
1. Về bố trí vốn để triển khai xây dựng cầu Bến Mới, cầu Đống Cao và từng bước đầu tư các cầu còn lại trên quốc lộ qua các sông lớn:
- Cầu Bến Mới thuộc dự án tín dụng ngành GTVT để cải tạo cầu yếu, vốn vay EDCF – Hàn Quốc. Dự án đã hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư, đã phê duyệt dự án đầu tư, đang hoàn thiện văn kiện dự án để ký Hiệp định vay vốn và làm các thủ tục bố trí vốn để triển khai thực hiện đầu tư công trình.
- Cầu Đống Cao: Bộ GTVT đã đưa cầu Đống Cao vào dự án tín dụng ngành GTVT để cải tạo cầu yếu, vốn vay EDCF giai đoạn 2. Hiện nay, đang tiến hành lập dự án đầu tư, làm cơ sở hoàn chỉnh văn kiện dự án để ký Hiệp định vay vốn đầu tư.
- Về đầu tư các cầu qua sông lớn trên các quốc lộ: Trên địa bàn tỉnh Nam Định có 04 sông lớn (sông Hồng, sông Đào, sông Đáy, sông Ninh Cơ), cơ bản đã được Bộ GTVT đầu tư vào cấp theo quy hoạch như cầu Tân Phong, cầu Lạc Quần trên QL.21, cầu Tân Đệ trên QL.10, các cầu trên cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình; đang đầu tư cầu Thịnh Long trên tuyến đường ven biển,... các cầu còn lại trên các quốc lộ, cao tốc thuộc địa bàn tỉnh Nam Định sẽ tiếp tục được đầu tư khi Bộ GTVT huy động được nguồn vốn.
2. Đầu tư nâng cấp QL21B đoạn Nam Định - Phủ Lý (khoảng 20km) lên cao tốc theo quy hoạch đã được duyệt vào giai đoạn 2017-2020:
QL.21B đoạn Nam Định – Phủ Lý đã được Bộ GTVT hoạch định nâng lên thành tuyến cao tốc Phủ Lý (Hà Nam) – Nam Định, dài 25km, quy mô 4 làn cao tốc. Hiện nay, QL.21B đoạn Nam Định – Phủ Lý đã được tỉnh Nam Định đầu tư theo hình thức BT kết hợp BOT, quy mô đường 4 làn xe, nền đường 24-48m đáp ứng nhu cầu vận tải của khu vực.
Do nguồn vốn ngân sách giai đoạn 2016-2020 hết sức hạn chế nên trước mắt chưa thể bố trí vốn thực hiện đầu tư nâng cấp tuyến đường lên thành đường cao tốc (xây dựng đường gom, cầu vượt, thảm lại mặt đường, biển báo); Trường hợp tỉnh Nam Định huy động được nguồn vốn đầu tư, Bộ GTVT ủng hộ tỉnh thực hiện đầu tư nâng tuyến đường lên theo quy mô khai thác đường cao tốc.
3. Nâng cấp tỉnh lộ 489C vào QL39B nối sang tỉnh Thái Bình qua phà Sa Cao và nâng cấp tỉnh lộ 485 vào QL37C nối với tỉnh Ninh Bình:
Tỉnh lộ 485 đoạn qua thị trấn Lâm, vượt sông Đáy sang Ninh Bình đã được Bộ GTVT trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào quy hoạch phát triển mạng đường bộ GTVT Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bổ sung quy hoạch tại văn bản số 1964/TTg-CN ngày 22/12/2017 (dự kiến gọi là QL.37C). Hiện nay do nguồn vốn ngân sách nhà nước trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 khó khăn, chưa thể bố trí vốn để đầu tư nâng cấp tuyến đường.
Tỉnh lộ 489C là đường địa phương do UBND tỉnh Nam Định quản lý, đầu tư. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Nam Định nghiên cứu, bố trí vốn để đầu tư nâng cấp tuyến đường, đáp ứng nhu cầu vận tải khu vực. Sau khi đầu tư nâng cấp, Bộ GTVT sẽ nghiên cứu nâng lên quốc lộ theo các tiêu chí của Luật Giao thông đường bộ.
103. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc kiến nghị việc quy hoạch dự án đường cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết từ 8-9 năm nay, nhưng hiện tại vẫn chưa thực hiện, làm ảnh hưởng đến đời sống, quyền lợi của người dân như: kinh doanh, buôn bán thế chấp ngân hàng để vay vốn… Đề nghị Nhà nước sớm triển khai thực hiện dự án.
Trả lời: Tại công văn số 2014/BGTVT-ĐTCT ngày 28/02/2018
- Dự án đường cao tốc Phan Thiết – Dầu Giây (trước đây gọi là Dầu Giây – Phan Thiết) có chiều dài khoảng 98km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư khoảng 19.571 tỷ đồng. Dự án trước đây đã được Chính phủ và Ngân hàng Thế giới (WB) quyết định lựa chọn thí điểm nghiên cứu đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Tuy nhiên, Dự án chưa thực hiện được do giữa Chính phủ Việt Nam và WB chưa thống nhất một số vấn đề về cơ chế, chính sách.
- Ngày 22/11/2017 vừa qua, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIV đã thông qua Nghị quyết số 52/2017/QH14 về chủ trương đầu tư dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (Nghị quyết số 52/2017/QH14), trong đó có đoạn Phan Thiết – Dầu Giây sẽ được thực hiện đầu tư công theo hình thức đối tác công tư.
- Trên cơ sở kế hoạch tại Nghị quyết số 52/2017/QH14 của Quốc hội: Công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện Dự án từ năm 2017 và cơ bản hoàn thành năm 2021, Bộ GTVT đang tích cực thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư để sớm tiến hành tổ chức đấu thầu quốc tế lựa chọn nhà đầu tư theo quy định. Ngày 09/01/2018, Bộ GTVT đã có văn bản số 282/BGTVT-ĐTCT báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch triển khai dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và một số đề xuất trong giai đoạn chuẩn bị dự án. Theo kế hoạch, dự kiến sẽ hoàn thành lựa chọn nhà đầu tư, ký hợp đồng dự án vào khoảng cuối năm 2019; sau khi ký hợp đồng dự án sẽ sớm triển khai thi công theo kế hoạch đã báo cáo Chính phủ, Quốc hội.
104. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Cử tri huyện Diên Khánh đề nghị Bộ quan tâm các vấn đề sau:
- Sửa chữa dải phân cách cứng trên Quốc lộ 1A (đoạn cua Phú Khánh xã Diên Thạnh) hiện nay đã bị hư hỏng;
- Xem xét, đầu tư nâng cấp tuyến tránh Quốc lộ 1A (đoạn từ cây Dầu Đôi nối Quốc lộ 1A).
Trả lời: Tại công văn số 2300/BGTVT-KHĐT ngày 07/3/2018
- Về việc sửa chữa dải phân cách cứng trên Quốc lộ 1A (đoạn cua Phú Khánh xã Diên Thạnh): Dải phân cách cứng trên QL.1 (đoạn cua Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) tại Km1464+325 – Km1464+475 thuộc đoạn đường cong nằm rẽ trái. Đoạn tuyến được xây dựng năm 1999 (Dự án mở rộng QL.1 năm 2015 không đầu tư đoạn tuyến này) có quy mô nền đường rộng 15,5m, mặt đường rộng 13,5m. Qua thời gian khai thác, các phương tiện tông va gây hư hỏng dải phân cách giữa (DPCG) tại vị trí này. Theo đề nghị của Ban An toàn giao thông tỉnh Khánh Hòa, Bộ GTVT đã giao Tổng cục ĐBVN tiến hành sửa chữa bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương. Đến nay, công đã được nghiệm thu hoàn thành đưa vào sử dụng ngày 27/12/2017.
- Về việc xem xét, đầu tư nâng cấp tuyến tránh Quốc lộ 1A (đoạn từ cây Dầu Đôi nối Quốc lộ 1A):
Quốc lộ 1 đoạn qua thị trấn Diên Khánh (Km1462+863 - Km1466+429) đã được Bộ GTVT đầu tư với quy mô 4 làn xe. Trong quá trình triển khai mở rộng Quốc lộ 1, để phù hợp với quy hoạch của địa phương, Bộ GTVT đã đầu tư tuyến tránh Diên Khánh với quy mô 2 làn xe, nâng tổng số tổng năng lực thông hành của các phương tiện giao thông qua đoạn tuyến này là 6 làn xe phù hợp theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Ngoài ra, để xóa bỏ các điểm xung đột nguy hiểm, nâng cao khả năng thông hành, trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh Khánh Hòa, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho phép đầu tư xây dựng 02 cầu vượt trên Quốc lộ 1 tại các nút giao với Quốc lộ 1C và nút giao Ngã ba Thành, tỉnh Khánh Hòa từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tiếp tục còn dư của các dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên tại Quyết định số 978/QĐ-TTg ngày 14/10/2016. Ngày 31/7/2017, Bộ GTVT đã có Quyết định số 2269/QĐ-BGTVT phê duyệt dự án đầu tư với tổng mức đầu tư khoảng 282 tỷ đồng. Dự án đã được khởi công xây dựng ngày 05/01/2018, dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2018.
105. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Cử tri huyện Cam Lâm kiến nghị Bộ chỉ đạo Cục quản lý đường bộ khu vực 3 xây dựng mương thoát nước mặt dọc tuyến Quốc lộ 1A (đoạn từ Cầu Mới đến cầu xi măng cũ thuộc xã Suối Cát).
Trả lời: Tại công văn số 2058/BGTVT-KCHT ngày 01/3/2018
Theo báo cáo của Tổng cục Đường bộ Việt Nam: Đoạn tuyến Quốc lộ 1 từ cầu Mới đến cầu xi măng cũ thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa thuộc lý trình từ Km1471+200-Km1471+620, QL.1. Đoạn tuyến này nằm trong Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1445-Km1488, sử dụng nguồn Trái phiếu Chính phủ. Toàn bộ Dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng từ tháng 05/2016.
Về hiện trạng tuyến: Phía trái của đoạn tuyến trên chạy song song với đường sắt Bắc Nam và hành lang an toàn đường bộ nhiều đoạn chồng lấn với hành lang an toàn đường sắt. Phía phải tuyến chạy men theo sông Suối Dầu. Tuyến tương đối bằng phẳng. Đối với phía phải tuyến nơi có các hộ dân sinh sống, độ chênh cao giữa mặt đường và nền tự nhiên từ (1-3)m nên tại dự án không bố trí rãnh thoát nước dọc. Nước mưa từ mặt đường chảy qua mái taluy đường bên phải chảy xuống nền tự nhiên, gặp các dãy nhà dân, tạo thành dòng và thoát qua các khoảng trống giữa các dãy nhà dân và đổ xuống sông Suối Dầu.
Tuy nhiên, do một số đoạn tuyến có bố trí rào phòng hộ mềm, có gờ bê tông nên nước tập trung tại Km1471+336 và Km1471+450 và chảy xuống mái taluy xuyên qua một số nhà dân tại khu vực này làm ảnh hưởng đến sinh hoạt và tài sản của người dân. Vì vậy, để đảm bảo thoát nước, giảm thiểu ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt của người dân ở khu vực lân cận đoạn tuyến, Bộ Giao thôngvận tải sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam khẩn trương nghiên cứu triển khai các giải pháp cải tạo hệ thống thoát nước phù hợp với thực tế, trong đó có xem xét giải pháp sửa chữa, bổ sung rãnh thu nước mặt từ mặt đường dẫn về các cống thoát nước đã có sẵn trong đoạn tuyến Quốc lộ 1 từ cầu Mới đến cầu xi măng cũ thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa (Km1471+200-Km1471+620, QL.1).
106. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Cử tri huyện Chư Sê đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét, chỉ đạo Ban Quản lý dự án đường Hồ Chí Minh hoàn trả số tiền trước đây huyện đã bỏ ra xây dựng vỉa hè khu trung tâm huyện số tiền 2,3 tỷ đồng, vì khối lượng vỉa hè này nằm trong khối lượng xây dựng vỉa hè của 5 km nâng cấp và mở rộng Quốc lộ 14 và Quốc lộ 25 đoạn qua trung tâm huyện Chư Sê do Ban Quản lý Dự án đường Hồ Chí Minh làm chủ đầu tư.
Trả lời: Tại công văn số 1960/BGTVT-KHĐT ngày 28/02/2018
Ngày 20/10/2017, Bộ GTVT đã có Công văn số 11829/BGTVT-KHĐT gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đề nghị tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền bổ sung danh mục và mức vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 từ nguồn dự phòng chung 10% theo Nghị quyết số 26/2016/QH14 ngày 10/11/2016 của Quốc hội, trong đó đã bao gồm kinh phí hoàn trả cho địa phương thuộc dự án nâng cấp, mở rộng đoạn Km565 – Km569 (Quốc lộ 14) và đoạn Km180 – Km181 (Quốc lộ 25) ngã ba thị trấn Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Sau khi được bố trí nguồn vốn, Bộ GTVT sẽ triển khai các thủ tục hoàn trả kinh phí theo quy định.
107. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Cử tri huyện Chư Sê đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Công ty cổ phần BOT&BT Đức Long Gia Lai sửa chữa hoàn trả các tuyến đường mà trước đây Công ty sử dụng để chuyên chở nguyên vật liệu thi công dự án BOT của Công ty là các tuyến đường này hư hỏng như: đường Võ Thị Sáu; đường liên xã Dun – Ia Pal; đường liên huyện Chư Sê – Đắk Đoa – Pleiku…
Trả lời: Tại công văn số 1992/BGTVT-CQLXD ngày 28/02/2018
Ngày 13/02/2018, Bộ Giao thông vận tải đã có Văn bản số 1716/BGTVT-CQLXD yêu cầu Công ty Cổ phần BOT&BT Đức Long Gia Lai phối hợp với các cơ quan liên quan của địa phương rà soát tình trạng hư hỏng của mặt đường, xác định cụ thể những hư hỏng do quá trình vận chuyển vật liệu để thi công Dự án mở rộng đường Hồ Chí Minh (QL14) đoạn Pleiku – cầu 110, tỉnh Gia Lai theo hình thức hợp đồng BOT gây ra; chỉ đạo các đơn vị liên quan khẩn trương sửa chữa, hoàn trả các hư hỏng mặt đường thuộc trách nhiệm của Nhà đầu tư theo hiện trạng ban đầu.
Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục chỉ đạo Ban Quản lý dự án Đường Hồ Chí Minh kiểm tra, đôn đốc Nhà đầu tư dự án rà soát, sửa chữa hư hỏng mặt đường thuộc trách nhiệm của Nhà đầu tư đảm bảo an toàn, thuận lợi trong khai thác không làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân địa phương.
108. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải quy hoạch lộ giới xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn qua huyện Chư Păh rõ ràng, để người dân ổn định đời sống, xây dựng các công trình kiên cố.
Trả lời: Tại công văn số 2610/BGTVT-CQLXD ngày 15/3/2018
1. Dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn tuyến tránh đô thị Pleiku, tỉnh Gia Lai, đã được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 1330/QĐ-BGTVT ngày 28/4/2016 về cơ bản tim tuyến đi trùng tim tuyến theo quy hoạch chi tiết đường Hồ Chí Minh tại Quyết định số 194/QĐ-TTg ngày 15/2/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó phân kỳ đầu tư giai đoạn I là đường cấp IV (Bn=9m, Bm=7m) vận tốc thiết kế 60-80Km/h; giai đoạn hoàn chỉnh là đường cao tốc cấp 80-100Km/h (Bn=24,75m, Bm=21m).
2. Việc thực hiện cắm cọc tim tuyến và xác định hành lang an toàn đường bộ dự kiến của đường Hồ Chí Minh quy hoạch (Quyết định số 194/QĐ-TTg ngày 15/2/2012) đã được Bộ GTVT giao Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh triển khai thực hiện tại Văn bản số 11874/BGTVT-KHĐT ngày 22/9/2014. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ GTVT, Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh đã phê duyệt hồ sơ thiết kế cắm cọc tim tuyến theo quy hoạch chi tiết Đường Hồ Chí Minh đoạn Ngọc Hồi - Chơn Thành (địa phận tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lăk) tại Quyết định số 4260/QĐ-ĐHCM ngày 10/12/2015, trong đó có quy định về phạm vi hành lang an toàn đường bộ: “Được xác định sơ bộ với khoảng cách từ tim quy hoạch ra mỗi bên 50m”.
3. Để thống nhất phạm vi công bố quy hoạch trên toàn tuyến đường Hồ Chí Minh, Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh đề xuất phương án “cắm mốc quy hoạch đường Hồ Chí Minh đoạn tuyến tránh đô thị Pleiku, tỉnh Gia Lai là từ tim tuyến ra mỗi bên 50m và trên cọc mốc ghi rõ mốc quy hoạch đường Hồ Chí Minh”.
4. Hiện nay Dự án đang được triển khai thi công và dự kiến hoàn thành trong tháng 6/2018, để có cơ sở cắm mốc lộ giới đường bộ cho Dự án nhằm đảm bảo thuận lợi trong công tác quản lý hành lang tuyến khi Dự án giai đoạn phân kỳ hoàn thành, đồng thời giảm thiểu thấp nhất khối lượng đền bù giải tỏa mặt bằng khi nâng cấp tuyến thành quy mô cao tốc hoàn chỉnh trong tương lai. Tuy nhiên, trong giai đoạn phân kỳ chưa xác định được chính xác phạm vi cắm mốc lộ giới đường bộ giai đoạn hoàn chỉnh (do giai đoạn phân kỳ có châm chước dốc dọc thiết kế, trong giai đoạn hoàn chỉnh phải điều chỉnh lại cao độ thiết kế).
5. Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo các đơn vị chức năng, nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý phù hợp với tình hình thực tế và tham mưu Bộ Giao thông vận tải giải quyết thống nhất trên toàn Dự án đường Hồ Chí Minh; đồng thời hướng dẫn Sở GTVT Gia Lai triển khai thực hiện theo quy định. Dự kiến hoàn thành trước ngày 10/4/2018.
109. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét nâng cấp Quốc lộ 19 đoạn giữa hai trạm thu phí BOT trên đoạn từ huyện Mang Yang đến thị xã An Khê.
Trả lời: Tại công văn số 1960/BGTVT-KHĐT ngày 28/02/2018
Quốc lộ 19 kết nối từ cảng Quy Nhơn - tỉnh Bình Định đến cửa khẩu Lệ Thanh - tỉnh Gia Lai dài khoảng 248 km. Do vai trò quan trọng của tuyến đường, Bộ GTVT đã huy động nguồn vốn và triển khai trước Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp QL19 đoạn Km17 - Km50, tỉnh Bình Định và đoạn Km108 - Km131, tỉnh Gia Lai theo hình thức Hợp đồng BOT, hiện đã hoàn thành và đang tiến hành thu giá tại Trạm thu giá Km49+550 (Bình Định) và Trạm thu giá Km124+720 (Gia Lai).
Đoạn còn lại đã được Bộ GTVT báo cáo và Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án tăng cường kết nối giao thông khu vực Tây Nguyên (QL19) vay vốn Ngân hàng Thế giới (WB), hiện đã ký kết Hiệp định khoản vay với Nhà tài trợ. Bộ GTVT và các cơ quan liên quan đang hoàn thiện thủ tục pháp lý để sớm triển khai dự án với phạm vi dự kiến như sau:
Riêng đoạn tuyến từ Km90 – Km108 sẽ được nghiên cứu, đầu tư nâng cấp, mở rộng bằng kinh phí còn dư của Dự án tăng cường kết nối giao thông khu vực Tây Nguyên (QL19) vay vốn WB (nếu có) và các nguồn vốn hợp pháp vào thời điểm phù hợp.
110. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải tiếp tục triển khai đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành đi Đức Hòa nhằm nối tiếp đường N2, góp phần giảm áp lực giao thông trên Quốc lộ 1A nhất là trong dịp lễ tết.
Trả lời: Tại công văn số 2612/BGTVT-ĐTCT ngày 15/3/2018
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 872/TTg-KTN Ngày 19/06/2015 về đầu tư đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa theo hình thức BOT, Bộ GTVT đã phê duyệt Đề xuất dự án tại Quyết định số 190/QĐ-BGTVT ngày 19/01/2017, trong đó kinh phí đền bù GPMB đoạn trên địa bàn tỉnh Long An khoảng 156 tỷ đồng.
Trong quá trình lập Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án và trên cơ sở tổng kết đánh giá hình thức đầu tư BOT thời gian qua thì việc đầu tư dự án với quy mô đường cấp III (quốc lộ) hai làn xe, hình thức thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo lượt (thu giá hở) có một số tồn tại như:
- Hình thức thu giá lượt chỉ đáp ứng được tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm thu giá đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả giá dịch vụ trong khi đó những người đi quãng đường dài 40÷50 km ở khoảng giữa hai trạm thu giá thì vẫn không phải trả), đây là nguyên nhân dẫn đến phản ứng của tài xế thời gian qua.
- Trước đây, Bộ GTVT nghiên cứu phương án đặt 02 trạm thu giá (theo nguyên tắc chỉ thu giá 01 lần đối với phương tiện đi qua cả 02 trạm) với lộ trình tăng giá 12%/3 năm trong suốt vòng đời của Dự án để đầu tư cho toàn tuyến dài 72,57km. Đến thời điểm hiện nay, lộ trình tăng giá 12%/3 năm trong suốt vòng đời của Dự án là không đủ cơ sở do các yếu tố hình thành giá phụ thuộc vào các yếu tố thực tế biến động theo từng giai đoạn, việc xác định lộ trình tăng giá cố định là chưa phù hợp với nguyên tắc định giá tại Luật giá số 11/2012/QH13.
Theo Quy hoạch chi tiết đường Hồ Chí Minh được phê duyệt tại Quyết định 194/QĐ-TTg ngày 15/02/2012, tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa được quy hoạch hoàn thiện theo tiêu chuẩn đường cao tốc 04 làn xe sau năm 2020. Do vậy, Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA đường Hồ Chí Minh nghiên cứu phương án đầu tư theo hướng quy mô cao tốc và áp dụng hình thức thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ trên số km thực đi để đảm bảo tính công bằng cho người sử dụng. Trong trường hợp nghiên cứu phương án đầu tư theo quy mô cao tốc khả thi, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa quy mô cao tốc 04 làn xe theo hình thức Hợp đồng BOT để sớm triển khai dự án và giải quyết các bất cập nêu trên.
111. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Quan tâm bố trí vốn và đẩy nhanh tiến độ dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 24: Dự án công trình nâng cấp, mở rộng Quốc lội 24, đoạn tuyến đi qua địa bàn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, từ Km11+667,5 đến Km32. Hiện nay, một số đọan trên địa bàn huyện thi công chậm, để kéo dài; riêng đoạn qua thị trấn Ba Tơ từ Km30 đến Km32 chưa được triển khai, hiện tuyến đường trên nhỏ hẹp, xuống cấp trầm trọng, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông, vào mùa mưa thường xuyên xảy ra ngập nước ở khu dân cư, trên cả tuyến đường, ảnh hưởng trong quá trình tham gia giao thông và cuộc sống ở người dân nơi đây. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm, chỉ đạo Tổng cục đường bộ Việt Nam, Ban quản lý Dự án 85 - Bộ GTVT quan tâm bố trí vốn và thực hiện đẩy nhanh tiến độ thi công công trình.
Trả lời: Tại công văn số 2301/BGTVT-KHĐT ngày 07/3/2018
Trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh Quảng Ngãi, Bộ GTVT đã có văn bản số 5940/BGTVT-KHĐT ngày 13/5/2015 cho phép triển khai thi công đoạn Km8 - Km32 thuộc dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 24 nối tỉnh Quảng Ngãi đến tỉnh Kon Tum (Km8 - Km165), bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ bổ sung cho dự án (Quyết định số 296/QĐ-BKHĐT ngày 12/03/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và ủy quyền cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Tổng cục ĐBVN) thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán làm cơ sở triển khai các bước tiếp theo. Đến nay, theo báo cáo của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, dự án đã cơ bản hoàn thành đoạn Km8 - Km16+500 và Km24+600 - Km30+503 (chỉ còn hạng mục bê tông nhựa đoạn Km14 - Km14+060; Km14+800 - Km15; Km16+100 - Km16+180). Các đoạn còn lại (Km16+500 - Km24+600 và Km30+503 - Km32) chưa được triển khai thi công do chưa bố trí được nguồn vốn.
Ngày 12/12/2017, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 52/2017/QH14, theo đó cho phép sử dụng nguồn vốn dự phòng trung hạn vốn NSNN giai đoạn 2016 - 2020 cho các dự án đường sắt quan trọng và các dự án đường bộ quan trọng, cấp bách. Trong quá trình xây dựng danh mục các dự án sử dựng nguồn vốn này, Bộ GTVT sẽ xem xét cân nhắc bố trí vốn để đầu tư một số đoạn cấp bách theo đề nghị của địa phương (trong đó có các đoạn tuyến nêu trên), trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Sau khi được cấp có thẩm quyền chấp thuận, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục ĐBVN sớm hoàn tất các thủ tục để triển khai thi công hoàn thành dự án.
112. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển giao thông vận tải đường sắt và đường thủy để giảm tải cho giao thông đường bộ.
Trả lời: Tại công văn số 1905/BGTVT-KHĐT ngày 27/02/2018
Trong bối cảnh việc kết nối giữa các phương thức vận tải để phát huy hiệu quả của toàn hệ thống chưa đảm bảo, chưa khai thác có hiệu quả hợp lý kết cấu hạ tầng giao thông và gây nên nhiều áp lực đối với ngành đường bộ; Tỷ lệ đảm nhận giữa các phương thức vận tải ngày càng mất cân đối, vận tải bằng đường bộ là chủ yếu; Kết quả kiềm chế tai nạn giao thông (TNGT) chưa bền vững; Tình trạng ùn tắc giao thông còn xảy ra thường xuyên tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Bộ GTVT đã xây dựng và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành giao thông vận tải phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2020 (Quyết định số 1210/QĐ-TTg ngày 24/07/2014 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó mục tiêu của Đề án nhằm tập trung sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiện có để thực hiện thành công Nghị quyết 13-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; xây dựng một số mục tiêu, giải pháp để phát triển giao thông vận tải đường sắt và đường thủy nhằm giảm tải cho đường bộ, cụ thể:
- Tái cơ cấu vận tải đường sắt theo hướng đảm nhận vận tải hàng hóa khối lượng lớn trên chặng đường dài hoặc trung bình; vận tải hành khách cự ly trung bình và hành khách công cộng tại các thành phố lớn. Tăng thị phần vận tải đường sắt trên các hành lang vận tải chủ yếu và vận tải hành khách công cộng tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2020, thị phần vận tải hàng hóa liên tỉnh khoảng 4,34%, vận tải hành khách khoảng 3,4% khối lượng vận tải toàn ngành; vận tải hành khách công cộng đô thị tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm từ 3-5% nhu cầu đi lại. Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải đường sắt, đặc biệt tại các ga, đầu mối vận tải. Đẩy nhanh quá trình tách quản lý hạ tầng đường sắt và kinh doanh vận tải đường sắt.
- Phát triển phương tiện đường sắt theo hướng hiện đại, công suất hợp lý, tiết kiệm nhiên liệu, hiệu quả;
- Từng bước nâng cao năng lực, chất lượng vận tải tuyến Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Thái Nguyên, phấn đấu hoàn thành xây dựng tuyến Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân và một số tuyến nhánh kết nối các cảng biển lớn, cảng cạn. Nâng cấp, cải tạo các nhà ga; thực hiện các dự án bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, trong đó ưu tiên đầu tư xây dựng các nút giao lập thể (cầu vượt đường sắt) tại các điểm giao cắt đồng mức giữa đường sắt và đường bộ có lưu lượng giao thông đường bộ lớn;
- Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt theo hướng tập trung ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam hiện có. Nghiên cứu các phương án khả thi đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam để có kế hoạch đầu tư xây dựng phù hợp. Nghiên cứu xây dựng mới các tuyến Lào Cai - Hà Nội, Hà Nội - Hải Phòng và Hà Nội - Đồng Đăng, Biên Hòa - Vũng Tàu, Sài Gòn - Cần Thơ; đường sắt nối cảng biển Hải Phòng - Lạch Huyện; đường sắt nối các tỉnh Tây Nguyên với cảng biển; đường sắt kết nối xuyên Á. Đảm bảo tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh;
- Tái cơ cấu vận tải đường thủy nội địa theo hướng chủ yếu đảm nhận vận tải hàng rời khối lượng lớn (khoáng sản, xi măng, vật liệu xây dựng...), vận tải hàng siêu trường, siêu trọng, vận tải chuyển tiếp phục vụ nông nghiệp và nông thôn; tăng thị phần đảm nhận của vận tải đường thủy nội địa, vận tải sông pha biển. Đến năm 2020, thị phần vận tải hàng hóa liên tỉnh bằng đường thủy nội địa đạt khoảng 32,38%, vận tải hành khách liên tỉnh đạt khoảng 0,17% khối lượng vận tải toàn ngành.
- Phát triển phương tiện thủy nội địa theo hướng cơ cấu hợp lý: đội tàu kéo đẩy chiếm khoảng 30%, đội tàu tự hành chiếm khoảng 70% trong tổng số phương tiện thủy nội địa; lựa chọn tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu thị trường và đặc trưng luồng, tuyến tại các vùng; ưu tiên phát triển đội tàu chở container;
- Tập trung cải tạo, nâng cấp các tuyến đường thủy nội địa chính; ưu tiên hoàn thành nâng cấp các tuyến kết nối vùng đồng bằng Sông Cửu Long với Thành phố Hồ Chí Minh; các tuyến sông Tiền, sông Hậu, sông Hồng, sông Thái Bình; tăng chiều dài các đoạn tuyến sông được khai thác. Nâng cấp và xây dựng mới một số cảng chính, bến hàng hóa và hành khách ở đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng để phục vụ nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách; quy hoạch và đầu tư mạng lưới kết cấu hạ tầng phục vụ vận tải sông pha biển.
Để hỗ trợ phát triển các lĩnh vực đường sắt, đường thủy nội địa nêu trên, Bộ GTVT sẽ tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật, văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đường sắt, đường thủy nhằm tháo bỏ rào cản, bãi bỏ hoặc bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; Định kỳ rà soát điều chỉnh, bổ sung các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành đường sắt, đường thủy nội địa nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của các lĩnh vực này; Tổ chức có hiệu quả các chủ trương, đề án xã hội hóa đầu tư, quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông trong lĩnh vực đường sắt, đường thủy nhằm khuyến khích thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước; Tăng công tác xúc tiến đầu tư; Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển nhân lực, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đường sắt và đường thủy nội địa.
113. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Sớm đầu tư nâng cấp mở rộng Quốc lộ 53 trên địa bàn huyện Càng Long; thường xuyên quan tâm và chủ động sửa chữa tuyến đường Quốc lộ 60 từ ngã 3 Bình Phú đến cầu Cổ Chiên để tạo điều kiện thuận lợi trong lưu thông và đảm bảo an toàn; xây dựng hệ thống thoát nước cặp 02 bên Quốc lộ 60 trên địa bàn xã Long Thới, huyện Tiểu Cần.
Trả lời: Tại công văn số 1912/BGTVT-KHĐT ngày 27/02/2018
- Đối với việc nâng cấp mở rộng Quốc lộ 53 trên địa bàn huyện Càng Long: Đây là đoạn tuyến nằm trong Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 53 đoạn Long Hồ - Ba Si được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư với Tổng mức đầu tư 1.222 tỷ đồng, thực hiện theo hình thức BOT tại Quyết định số 1236/QĐ-BGTVT ngày 09/4/2015 và triển khai công tác chuẩn bị thi công từ tháng 3 năm 2016. Trong quá trình triển khai, tiến độ Dự án chậm trễ do các nguyên nhân khách quan và chủ quan như: vướng mắc trong công tác GPMB, nhà đầu tư vi phạm quy định của hợp đồng BOT trong việc ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng để huy động nguồn vốn thực hiện Dự án. Bộ GTVT đã triển khai các thủ tục xử lý vi phạm của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án theo quy định và cho phép nhà đầu tư dự án được cơ cấu lại danh sách cổ đông, chuyển nhượng và thay thế, bổ sung thêm cổ đông có năng lực thực hiện Dự án theo quy định. Tuy nhiên, hiện nay do chủ trương chung của Quốc hội và Chính phủ không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu, các ngân hàng cung cấp tín dụng thắt chặt hạn mức cho vay, do vậy không thể tiếp tục triển khai Dự án theo hình thức BOT. Căn cứ thực tế triển khai và hợp đồng đã ký, Bộ GTVT đã thống nhất thực hiện quy trình chấm dứt hợp đồng Dự án đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án và làm việc với UBND các tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh để thỏa thuận việc chấm dứt hợp đồng Dự án theo quy định. Bộ GTVT sẽ phối hợp với các địa phương để tìm kiếm, huy động nguồn vốn tiếp tục triển khai Dự án.
- Đối với việc sửa chữa tuyến đường Quốc lộ 60 từ ngã 3 Bình Phú đến cầu Cổ Chiên: Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã phê duyệt Dự án sửa chữa khắc phục bão lũ bước 2 và hoàn thiện hệ thống rãnh thoát nước trên Quốc lộ 60 đoạn Km54+900 - Km60+637, tỉnh Trà Vinh với kinh phí khoảng 27 tỷ đồng để sửa chữa hư hỏng cục bộ, thảm BTN mặt đường và hoàn thiện hệ thống rãnh thoát nước. Dự án sẽ triển khai thi công trong năm 2018.
- Đối với việc xây dựng hệ thống thoát nước cặp 02 bên Quốc lộ 60 trên địa bàn xã Long Thới, huyện Tiểu Cần: Trong kế hoạch bảo trì năm 2018, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã có kế hoạch cho phép chuẩn bị đầu tư để xây dựng hệ thống rãnh dọc đoạn tuyến nêu trên.
114. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Sớm xây dựng bờ kè 02 tuyến bờ cặp luồng tàu vào sông Hậu để khắc phục tình trạng sạt lở nghiêm trọng trên địa bàn huyện Trà Cú.
Trả lời: Tại công văn số 1543/BGTVT-KHĐT ngày 08/02/2018
- Dự án đầu tư xây dựng công trình Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu (Dự án) là dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải với mục tiêu xây dựng luồng cho tàu biển có trọng tải đến 10.000 tấn đầy tải, tàu trọng tải đến 20.000 tấn giảm tải có thể hành hải vào, ra các cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dự án sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ (TPCP) giai đoạn 2014 - 2016. Thực hiện Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bố trí cho dự án 6.100 tỷ đồng. Đến nay, Dự án đã hoàn thành đầu tư giai đoạn thông luồng kỹ thuật.
- Nguồn vốn được bố trí theo Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội chỉ bố trí vốn cho giai đoạn 1 của Dự án để đảm bảo yêu cầu thông luồng kỹ thuật, chưa đảm bảo yêu cầu đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ Dự án. Một số khu vực xung yếu của Dự án cần phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời xử lý sạt lở, sụt trượt mái luồng. Dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu được thi công nạo vét với mái dốc m = 6 trên nền địa chất tương tự như đoạn luồng kênh Tắt. Tuy nhiên, trong Giai đoạn thông luồng kỹ thuật, dự án chưa được bố trí kinh phí để xây dựng hệ thống kè bảo vệ bờ đoạn kênh này. Nhu cầu tăng cường bảo vệ luồng kênh Quan Chánh Bố hiện hữu để không bị sạt lở, đầu tư xây dựng kè bảo vệ bờ khu vực bờ Nam ngã ba sông Hậu và các điểm xung yếu dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu là thật sự cần thiết, cấp bách nhằm bảo vệ luồng tàu, đảm bảo ổn định dân sinh dọc hai bên bờ kênh.
- Nhận thức được tầm quan trọng và cấp thiết nêu trên, Bộ GTVT đã có văn bản số 3215/BGTVT-KHĐT ngày 25/3/2016, văn bản số 14830/BGTVT-KHĐT ngày 13/12/2016 và mới đây nhất là văn bản số 13332/BGTVT-KHĐT ngày 24/11/2017 báo cáo và đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ GTVT sử dụng toàn bộ nguồn vốn dư giai đoạn 1 của dự án Luồng cho tàu trọng tải lớn vào sông Hậu (nguồn vốn TPCP giai đoạn 2014 - 2016 dự kiến khoảng 1.676,3 tỷ đồng bao gồm 1.515 tỷ đồng vốn kế hoạch đã bố trí nhưng còn dư và 161,3 tỷ đồng thuộc giai đoạn 2014 - 2016 chưa bố trí cho Dự án) để thực hiện đầu tư các hạng mục thiết yếu của Dự án theo thứ tự ưu tiên: Xây dựng kè bảo vệ bờ khu vực bờ Nam ngã ba sông Hậu và các điểm xung yếu dọc kênh Quan Chánh Bố (các vị trí hai bên bờ kênh chưa kè); Thiết lập các vị trí tránh tàu; Lắp đặt hệ thống VTS kết hợp phân luồng; Xây dựng đường dân sinh dọc kênh Tắt. Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tổng hợp, báo cáo Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép sử dụng nguồn vốn dư Giai đoạn 1 của Dự án để triển khai đầu tư ngay các hạng mục cấp bách thuộc Giai đoạn 2 của Dự án để đáp ứng yêu cầu đồng bộ, ổn định của toàn Dự án và an toàn dân sinh địa phương.
- Bộ GTVT cũng đã giao Ban Quản lý dự án Hàng hải chỉ đạo Tư vấn nghiên cứu theo dõi, đánh giá diễn biến sa bồi trên luồng tàu, đánh giá ổn định của đường bờ, kè bảo vệ bờ và đê chắn sóng để đánh giá ổn định, hiệu quả giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án, đồng thời hoàn chỉnh phương án thiết kế kỹ thuật các hạng mục giai đoạn 2, đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả toàn Dự án để có thể thực hiện ngay sau khi được giao kế hoạch vốn TPCP năm 2018.
115. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh tuyến Quốc lộ 54 đoạn ngang qua tỉnh Vĩnh Long hiện nay quá tải, xuống cấp trầm trọng gây khó khăn cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân. Cử tri đề nghị Chính phủ sớm có kế hoạch sửa chữa, duy tu, nâng cấp mở rộng tuyến quốc lộ này tạo điều kiện cho người dân đi lại vận chuyển hàng hóa dễ dàng hơn.
Trả lời: Tại công văn số 1881/BGTVT-KHĐT ngày 27/02/2018
Quốc lộ 54 đoạn qua địa phận tỉnh Vĩnh Long có chiều dài 49km đã hoàn thành theo quy mô cấp V đồng bằng và đã được Tổng cục Đường bộ Việt Nam cạp lề mỗi bên rộng 1m. Bộ GTVT đã chỉ đạo các đơn vị liên quan nghiên cứu đầu tư mở rộng QL54 đoạn qua địa phận tỉnh Vĩnh Long theo hình thức BOT, tuy nhiên do lưu lượng giao thông trên tuyến thấp nên dự án không khả thi về phương án tài chính.
Hiện nay, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT trong giai đoạn 2016-2020 rất hạn chế, do vậy giai đoạn trước mắt chưa cân đối được nguồn vốn để triển khai đầu tư nâng cấp đoạn tuyến này. Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
116. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ xem xét, có giải pháp cân đối vốn để tiếp tục thực hiện Giai đoạn 2 dự án Nâng cấp kênh Chợ Gạo. Bởi hiện nay, đoạn kè trước đây của kênh Chợ Gạo phía bên Bình Phục Nhất đã bị sạt lở nghiêm trọng. Đường đi có đoạn chỉ vừa 01 xe 02 bánh lưu thông, rất nguy hiểm cho người và phương tiện khi lưu thông nhất là vào ban đêm; hoạt động sản xuất và kinh doanh của người dân trong khu vực đã bị ngưng trệ vì không thể thực hiện chuyên chở hàng hóa. Nhà cửa người dân bị xuống cấp nhưng không thể sửa chữa, vì đây là khu vực sẽ triển khai dự án.
Trả lời: Tại công văn số 1614/BGTVT-KHĐT ngày 09/02/2018
1. Dự án Nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo được Bộ trưởng Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 3178/QĐ-BGTVT ngày 30/10/2009 sử dụng vốn Trái phiếu Chính phủ với tổng mức đầu tư 4.221 tỷ đồng (kinh phí GPMB là 1.267 tỷ đồng) để đầu tư với quy mô đạt cấp II kỹ thuật đường thủy nội địa với chiều rộng đáy luồng B=80m, độ sâu chạy tàu B=4,0 m.
Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, Bộ GTVT đã điều chỉnh dự án tại Quyết định số 1738/QĐ-BGTVT ngày 21/6/2013 với tổng mức đầu tư 2.263 tỷ đồng, phân kỳ đầu tư Giai đoạn 1 (thực hiện năm 2015) có tổng mức đầu tư 786,8 tỷ đồng với mục tiêu thông luồng kỹ thuật, kè bờ một số đoạn xung yếu tại bờ Bắc, bờ Nam; nạo vét một số đoạn cạn để tàu trọng tải 800 tấn đến 1.000 tấn lợi dụng thủy triều có thể hành thủy. Giai đoạn 2 có tổng mức đầu tư 1.476,78 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2017.
Giai đoạn 1 của Dự án đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng năm 2015, góp phần cải thiện năng lực vận tải thủy trên tuyến, chống xói lở một số đoạn bờ kênh xung yếu trong đó có một phần bờ Bắc kênh Chợ Gạo, đảm bảo an sinh xã hội cho nhân dân vùng dự án. Do nguồn vốn ngân sách hạn chế, Giai đoạn 2 của Dự án hiện chưa được đầu tư. Bộ GTVT đã nghiên cứu thực hiện theo hình thức xã hội hóa và ủy quyền cho Cục ĐTNĐ Việt Nam là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, do còn một số tồn tại trong hình thức thu phí, mức phí… và thực hiện Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), việc thực hiện Giai đoạn 2 của Dự án theo hình thức xã hội hóa chưa thể triển khai.
Vừa qua, Bộ GTVT đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) hoàn thành lập dự án Phát triển các hành lang đường thủy và logistics khu vực phía Nam sử dụng Quỹ PPTAF của WB. Hành lang đường thủy Bắc - Nam và Hành lang đường thủy Đông - Tây khu vực đồng bằng sông Cửu Long (bao gồm cả tuyến kênh Chợ Gạo - Giai đoạn 2) đã được lựa chọn trong nghiên cứu lập dự án để tăng cường năng lực kết nối bằng đường thủy giữa đồng bằng sông Cửu Long và các khu bến cảng biển Đồng Nai, Bình Dương đến các bến cảng biển khu vực thành phố Hồ Chí Minh và khu bến cảng Cái Mép - Thị Vải làm cơ sở báo cáo Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan cho phép sử dụng vốn vay ODA để đầu tư trong thời gian tới.
2. Đối với tình trạng sạt lở bờ, đường dân sinh khu vực dự án Kênh Chợ Gạo, đặc biệt đối với khu vực Bình Phục Nhất, Bộ GTVT sẽ giao Cục ĐTNĐ Việt Nam, Ban Quản lý các dự án đường thủy phối hợp với các Sở, ban, ngành của địa phương để khảo sát thực địa làm cơ sở đánh giá, đề xuất phương án xử lý theo quy định.
117. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ sớm có biện pháp khắc phục tình trạng ngập nước đoạn đường trước phòng khám Đa khoa khu vực An Thái Trung (thuộc huyện Cái Bè) (QL.1A), đoạn qua UBND xã Bình Phú (huyện Cai Lậy) và các đoạn đường khác đi qua các xã Mỹ Đức Tây, Mỹ Đức Đông, Thiện Trí, Hòa Khánh thuộc huyện cái Bè. Bởi, cử tri đã nhiều lần phản ánh nhưng đến nay vẫn chưa được khắc phục.
Trả lời: Tại công văn số 2053/BGTVT-KCHT ngày 01/3/2018
- Hiện tại, đoạn QL.1 trước Phòng khám Đa khoa khu vực An Thái Trung (huyện Cái Bè) và qua UBND xã Bình Phú (huyện Cai Lậy) thuộc dự án BOT tuyến tránh Cai Lậy đã có hệ thống rãnh dọc. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác sử dụng, đất cát trên mặt đường và người dân vứt rác sinh hoạt vào hệ thống hố thu nước của rãnh dọc làm hạn chế dòng chảy. Cục QLĐBIV đã yêu cầu nhà đầu tư BOT tuyến tránh Cai Lậy thường xuyên nạo vét rãnh và đề nghị chính quyền địa phương tuyên truyền người dân không đổ rác thải xuống cống rãnh.
- Về ngập nước các đoạn QL.1 qua các xã Mỹ Đức Tây, Mỹ Đức Đông, Thiện Trí, Hòa Khánh thuộc huyện Cái Bè gồm: đoạn Km2014+200÷ Km2014+600 (P); Km 2015÷Km 2015+500 (P), Km2015+900÷Km2016+200(P); Km2016+700÷Km2017+ 150 (P); Km2017÷Km2017+450 (T); Km2019+300÷Km2020 (P); Km2024÷Km 2025 (T) qua khu vực dân cư, chưa có hệ thống thoát nước, khi mưa lớn liên tục nước mưa không thoát kịp gây đọng nước mặt đường. Các đoạn QL.1 nêu trên thuộc hạng mục công trình được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương bổ sung vào dự án BOT tuyến tránh Cai Lậy tại Văn bản số 589/TTg-KTN ngày 06/4/2016, hiện tại dự án chưa triển khai. Trước mắt, để đảm bảo thoát nước mặt đường, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục ĐBVN chủ trì, phối hợp với địa phương và các đơn vị liên quan kiểm tra hiện trường để xem xét, bổ sung rãnh thoát nước khu vực nêu trên vào kế hoạch bảo trì đường bộ hàng năm để triển khai thực hiện.
118. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ quan tâm sớm thực hiện láng nhựa giai đoạn 2 (đoạn qua địa bàn thị xã Gò Công, còn khoảng 5 km) và xây dựng dải phân cách trên Quốc lộ 50 nhằm đảm bảo an toàn tính mạng cho người dân khi tham gia giao thông. Vì hiện nay đoạn đường này đã xuống cấp trầm trọng, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. Cử tri địa phương rất bức xúc vì đã kiến nghị rất nhiều lần nhưng chưa được quan tâm xem xét, giải quyết.
Trả lời: Tại công văn số 1885/BGTVT-KHĐT ngày 27/02/2018
Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương điều chuyển khoảng 50 tỷ đồng từ phần vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 còn dư của dự án Quốc lộ 50 đoạn Gò Công - Mỹ Tho sang dự án Quốc lộ 50 đoạn Mỹ Lợi - Gò Công để tiếp tục đầu tư hoàn thiện thảm bêtông nhựa đoạn từ Km43+000 - Km47+334 (Văn bản số 5936/VPCP-KTTH ngày 29/7/2015 của Văn phòng Chính phủ). Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án, đồng thời đề nghị Bộ KH&ĐT điều hòa, điều chỉnh kế hoạch vốn của dự án nên trên để tổ chức triển khai thi công, tuy nhiên đến nay dự án chưa được giao kế hoạch vốn.
Hiện nay, Bộ KH&ĐT đang tiếp tục rà soát việc sử dụng nguồn vốn TPCP còn lại giai đoạn 2012 – 2015 và giai đoạn 2014 - 2016 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để trình Quốc hội. Sau khi được Quốc hội thông qua và được Thủ tướng Chính phủ giao vốn, Bộ GTVT sẽ tổ chức triển khai thực hiện.
119. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Tăng cường hệ thống chiếu sáng trên đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương và kế hoạch kiểm tra sửa chữa hệ thống chiếu sáng nhánh rẽ vào đường cao tốc (từ ngã tư Đồng Tâm đến vòng xoay Thân Cửu Nghĩa) thường xuyên bị tắt, hư hỏng.
Trả lời: Tại công văn số 2198/BGTVT-KCHT ngày 05/3/2018
Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Đơn vị quản lý bảo trì tuyến cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Trung Lương rà soát, kiểm tra hệ thống chiếu sáng trên tuyến và đã thực hiện việc thay thế các bóng chiếu sáng, thiết bị hư hỏng đảm bảo thắp sáng, an toàn giao thông trên tuyến cao tốc và đường dẫn; hoàn thành sửa chữa, thay thế hệ thống chiếu sáng trước 15/02/2018.
120. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Xây dựng hoàn thiện đường gom trên toàn tuyến cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên để thuận lợi cho người dân khi tham gia giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 2149/BGTVT-KHĐT ngày 05/3/2018
Dự án QL3 mới đoạn Hà Nội - Thái Nguyên đã được đầu tư xây dựng và đưa vào khai thác, sử dụng từ năm 2014, trong đó đã đầu tư xây dựng một số đoạn đường gom dọc tuyến nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của tuyến cao tốc.
Bộ GTVT đã và đang nghiên cứu triển khai đầu tư hoàn chỉnh tuyến QL.3 mới đoạn Hà Nội – Thái Nguyên đáp ứng tiêu chuẩn cao tốc theo hình thức BOT, trong đó dự kiến xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đường gom trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay, đề xuất đầu tư dự án đang được Tư vấn hoàn thiện và trình Bộ GTVT để có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận phê duyệt làm cơ sở triển khai đầu tư hạng mục đường gom, tạo thuận lợi cho người dân địa phương tham gia giao thông, canh tác nông nghiệp.
121. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Bố trí kinh phí 97 tỷ đồng thanh toán cho dự án cải tạo, nâng cấp QL.3 cũ đoạn Km34+500 – Km38+500, tỉnh Thái Nguyên. Dự án đã thi công hoàn thành ngày 30/9/2016, bàn giao công trình đưa vào khai thác sử dụng ngày 16/01/2017 với giá trị khối lượng hoàn thành xấp xỉ 97 tỷ đồng. Trong đó UBND tỉnh Thái Nguyên đã tạm ứng 60 tỷ đồng để thực hiện dự án và còn nợ các nhà thầu khoảng 37 tỷ đồng.
Trả lời: Tại công văn số 2149/BGTVT-KHĐT ngày 05/3/2018
Để đáp ứng nhu cầu giao thông sau khi tập đoàn Samsung đầu tư nhà máy tại khu công nghiệp Yên Bình, khai thác đồng bộ toàn tuyến QL.3 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại văn bản số 7983/VPCP-KTN ngày 10/10/2014, Bộ GTVT đã phê duyệt đầu tư dự án cải tạo, nâng cấp QL.3 cũ đoạn Km34+500 – Km38+500, quy mô đường cấp III, 2 làn xe, tổng mức đầu tư 134 tỷ đồng sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trước mắt UBND tỉnh Thái Nguyên ứng vốn để thực hiện đầu tư. Dự án đã thi công hoàn thành năm 2016 từ nguồn vốn ứng trước của UBND tỉnh Thái Nguyên với kinh phí đầu tư 97 tỷ đồng.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn 2016-2020, Bộ GTVT đã dự kiến nguồn vốn để hoàn trả kinh phí UBND tỉnh Thái Nguyên đã ứng vốn thi công. Tuy nhiên, do nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho Bộ GTVT hạn chế, chỉ đủ cân đối trả nợ đọng xây dựng cơ bản, một phần vốn đối ứng các dự án ODA đang triển khai dở dang,... chưa bố trí được nguồn vốn để trả nợ vốn cho các dự án đã được địa phương ứng vốn theo chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có dự án cải tạo, nâng cấp QL.3 cũ đoạn Km34+500 – Km38+500.
Để có nguồn vốn thanh toán cho dự án, Bộ GTVT đã nhiều lần có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị được bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 nguồn ngân sách nhà nước để bố trí cho dự án và gần đây nhất, Bộ GTVT đã có văn bản số 11707/BGTVT-KHĐT ngày 18/10/2017 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ ưu tiên bổ sung nguồn vốn trung hạn từ nguồn dự phòng chung kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 để trả nợ cho các dự án đã được địa phương, doanh nghiệp ứng vốn thực hiện (ưu tiên số 1, mục b phần 3 của văn bản số 11707/BGTVT-KHĐT ngày 18/10/2017).
122. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Quốc lộ 47C có điểm đầu Km0+00 giao với Quốc lộ 45 tại lý trình Km93+600 (cầu Quan), điểm cuối giao với đường Hồ Chí Minh tại lý trình Km562+100 (Mục Sơn); tuyến có chiều dài 58,5km, các đoạn qua thị trấn có mặt cắt ngang theo quy hoạch, các đoạn còn lại đạt cấp V, VI đồng bằng, mặt đường láng nhựa. Đây là tuyến đường quan trọng nối Quốc lộ 45, Quốc lộ 47, thành phố Thanh Hóa với khu đô thị Lam Sơn - Sao Vàng, khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh, huyện Thọ Xuân. Đề nghị Tổng cục Đường bộ Việt Nam sớm bố trí kinh phí để đầu tư sửa chữa hư hỏng nền mặt đường dự án đã được Tổng cục Đường bộ Việt Nam quyết định đầu tư tại Quyết định số 3289/QĐ-TCĐBVN ngày 14/11/2016.
Trả lời: Tại công văn số 2034/BGTVT-KCHT ngày 01/3/2018
Dự án sửa chữa QL.47C theo kiến nghị của cử tri tỉnh Thanh Hóa đã được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt kế hoạch thực hiện tại Quyết định số 2771/QĐ-BGTVT ngày 27/9/2017 (Quyết định phê duyệt bổ sung Kế hoạch bảo trì hệ thống quốc lộ năm 2017) với kinh phí dự kiến 25 tỷ đồng. Năm 2017, dự án được Hội đồng Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương giao kế hoạch chi là 350 triệu đồng và sẽ được tiếp tục bố trí vốn để thực hiện trong năm 2018.
123. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Cử tri huyện Thạch Thành đề nghị Trung ương đầu tư xây dựng tuyến đường tránh Quốc lộ 45 đoạn qua thị trấn Kim Tân. Tuyến đường từ Quốc lộ 217B đi khu di tích Quốc gia đặc biệt Hang Con Moong, xã Thành Yên hiện nay là đường đất, vào mùa mưa hay bị lầy lội, gây khó khăn cho việc lưu thông và đi lại của nhân dân. Đề nghị Nhà nước cho đầu tư xây dựng tuyến đường này.
Trả lời: Tại công văn số 1837/BGTVT-KHĐT ngày 26/02/2018
1. Tuyến đường Quốc lộ 45 đoạn tránh thị trấn Kim Tân:
Đoạn tuyến Quốc lộ 45 tránh thị trấn Kim Tân thuộc phạm vi nghiên cứu của Dự án đầu tư xây dựng công trình cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 45 theo hình thức BOT, Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư tại văn bản số 238/TTg-KTN ngày 04/02/2016, Bộ Giao thông vận tải đã phê duyệt đề xuất dự án tại Quyết định số 510/QĐ-BGTVT ngày 23/2/2016. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT thì “các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để bảo đảm quyền lựa chọn của người dân, không đầu tư cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu”. Do vậy, hiện nay Dự án đã dừng không triển khai theo hình thức BOT.
Bộ GTVT thống nhất với Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa về sự cần thiết đầu tư cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 45 để đảm bảo lưu thông thông suốt, an toàn. Tuy nhiên, do điều kiện nguồn vốn xây dựng cơ bản được giao cho Bộ GTVT trong giai đoạn 2016-2020 hết sức hạn chế, chưa thể đầu tư dự án này nên Bộ GTVT xin ghi nhận ý kiến của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa và sẽ tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét cho phép đầu tư dự án khi cân đối được nguồn vốn. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường duy tu, sửa chữa để đảm bảo khai thác an toàn.
2. Tuyến đường từ Quốc lộ 217B đi khu di tích Quốc gia đặc biệt Hang Con Moong, xã Thành Yên: đây là tuyến đường thuộc thẩm quyền quản lý, đầu tư của UBND tỉnh Thanh Hóa nên ngân sách được giao của Bộ GTVT không thể chi cho đầu tư xây dựng công trình. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Thanh Hóa chủ động cân đối ngân sách địa phương hoặc huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng công trình. Trong điều kiện ngân sách địa phương khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Thanh Hóa báo cáo các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ vốn từ ngân sách Trung ương cho đầu tư xây dựng công trình.
124. Cử tri tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị: Thời gian vừa qua, tỉnh Thừa Thiên Huế chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cơn bão số 12 gây ngập úng, sạt lở nghiêm trọng tại một số điểm trên các tuyến đường giao thông huyết mạch như: tuyến Quốc lộ 49A đoạn qua huyện A Lưới và Quốc lộ 49B đoạn qua huyện Phong Điền làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của nhân dân trong vùng, Vì vậy đề nghị Bộ GTVT quan tâm có kế hoạch sửa chữa và giải quyết dứt điểm tại các điểm bị sạt lở tại các tuyến Quốc lộ 49A và 49B.
Trả lời: Tại công văn số 2039/BGTVT-KCHT ngày 01/3/2018
Tuyến QL.49 đoạn qua huyện A Lưới: trong và sau cơn bão số 12, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã chỉ đạo Cục Quản lý đường bộ II khẩn trương khắc phục nhanh sự cố, đảm bảo an toàn giao thông tại các vị trí sạt lở ta luy âm, ta luy dương, ngập nước; đặc biệt những vị trí bị hư hỏng nặng như Km56+195, Km75+260, Km76+380, không để xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông kéo dài. Công tác khắc phục sự cố do mưa lũ cơ bản đã hoàn thành sau 2 tháng kể từ ngày xảy ra hư hỏng, đảm bảo lưu thông thuận lợi. Riêng tại điểm Km75+260 mặt đường bị lún sâu bình quân 0,8m-1,0m xuất hiện cung trượt trên đỉnh ta luy dương kéo ngang 2 đầu điểm sụt lún cắt ngang đường có nguy cơ sụt lở, đứt đường; tại thời điểm xảy ra sự cố trời mưa to, đất ngậm nước tăng tĩnh tải, không đảm bảo an toàn cho xe có tải trọng lớn đi qua. Sau khi có báo cáo của Cục Quản lý đường bộ II, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã cho phép xử lý hạ tải. Hiện nay tại vị trí này đã thi công xong, đáp ứng tải trọng khai thác, đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân.
Tuyến QL.49B đoạn qua huyện Phong Điền: do ảnh hưởng của cơn bão số 12, trên tuyến bị sạt lở nhiều đoạn như tại Km4, Km10, Km19-Km25, sạt lở mái ta luy gia cố Km40-Km48. Các vị trí hư hỏng, sạt lở trên đã được Tổng cục Đường bộ Việt Nam chỉ đạo Sở Giao thông vận tải Thừa Thiên Huế khẩn trương gia cố, khắc phục kịp thời để đảm bảo giao thông. Hiện nay trên QL.49B không còn tồn tại vị trí sạt lở làm ảnh hưởng đến nền, mặt đường và việc lưu thông trên tuyến.
125. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Đề nghị Chính phủ khi triển khai dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 cần quan tâm đến việc làm, đời sống, chính sách hỗ trợ và ưu tiên đối với người dân bị thu hồi đất; giám sát, quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn và các nguồn lực.
Trả lời: Tại công văn số 1810/BGTVT-ĐTCT ngày 23/02/2018
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa 14 đã thông qua chủ trương đầu tư Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 của Quốc hội). Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Bộ Giao thông vận tải đang phối hợp với các cơ quan liên quan, hoàn thiện các thủ tục theo quy định để triển khai dự án.
Trong quá trình triển khai, Bộ Giao thông vận tải sẽ phối hợp với các địa phương có liên quan, xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi đất theo đúng quy định của Luật đất đai. Để quản lý chặt chẽ, minh bạch, hiệu quả việc sử dụng vốn và các nguồn lực, Bộ Giao thông vận tải đang phối hợp với các Bộ, ngành, xây dựng các cơ chế triển khai đầu tư, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét thông qua, làm cơ sở để triển khai dự án.
Bộ Giao thông vận tải trân trọng cảm ơn và rất mong nhận được sự quan tâm, đồng hành của cử tri Hà Nội.
126. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri phản ánh tuyến đường sắt Bắc - Nam đã cũ, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường sắt đôi, khổ 1,435m trên trục Bắc – Nam.
Trả lời: Tại công văn số 1773/BGTVT-KHĐT ngày 21/02/2018
Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2014 của Ban Chấp hành TW Đảng Khóa XI về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, Bộ GTVT đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam (tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015); theo đó giai đoạn từ nay đến 2020: “Nghiên cứu phương án xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao, đường đôi khổ 1.435 mm, điện khí hóa trên trục Bắc - Nam”.
Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo Ban QLDA đường sắt tổ chức rà soát, nghiên cứu cập nhật, bổ sung để hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án làm cơ sở trình Quốc hội xem xét, thông qua chủ trương đầu tư dự án trước năm 2020 làm cơ sở để triển khai các thủ tục tiếp theo như ý kiến quan tâm của cử tri.
Bộ Giao thông vận tải đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội chuyển các ý kiến nêu trên để cử tri được rõ; đồng thời phối hợp chặt chẽ, đồng hành cùng với Bộ GTVT trong quá trình nghiên cứu, báo cáo chủ trương đầu tư Dự án theo định hướng Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
127. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan cần quan tâm hiện đại hóa hệ thống đường sắt song song với phát triển đường bộ góp phần đẩy nhanh phát triển kinh tế, giảm thiểu tai nạn giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 1774/BGTVT-KHĐT ngày 21/02/2018
Để tiếp tục phát huy thế mạnh trong vận tải đường dài, khối lượng lớn, góp phần giảm tải cho đường bộ, giảm thiểu tai nạn giao thông và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của cả nước, Bộ GTVT đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015, trong đó giai đoạn từ nay đến năm 2020 sẽ tập trung đầu tư, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, trong đó ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam để đạt tốc độ chạy tàu bình quân 80 - 90km/h đối với tàu khách và 50 - 60km/h đối với tàu hàng. Đồng thời, để bảo đảm nguồn vốn nhằm từng bước thực hiện quy hoạch nêu trên, theo đề nghị của Bộ GTVT, Chính phủ cũng đã trình Quốc hội thông qua chủ trương bố trí 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng kế hoạch trung hạn 2016 - 2020 cho các dự án đường sắt quan trọng và các dự án đường bộ quan trọng, cấp bách tại Nghị quyết số 52/2017/QH14; hiện nay, Bộ GTVT đang đề xuất bố trí 7.000 tỷ đồng để thực hiện 04 dự án quan trọng trên tuyến đường sắt Bắc - Nam.
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu vận tải và tăng cường sự kết nối giữa các thành phố lớn trên trục Bắc - Nam (nhất là việc kết nối hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) bằng hệ thống giao thông vận tải tốc độ cao, an toàn, Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt cũng đã xác định và dự kiến lộ trình phát triển tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, trước mắt từ nay đến năm 2020 sẽ tập trung nghiên cứu phương án xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao, đường đôi khổ 1.435mm, điện khí hóa; trong đó chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước ưu tiên xây dựng trước những đoạn tuyến có nhu cầu vận tải lớn như đoạn Hà Nội - Vinh, Nha Trang - Sài Gòn. Hiện nay, Bộ GTVT đang triển khai rà soát các nghiên cứu trước đây về Dự án để cập nhật, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; dự kiến Bộ GTVT sẽ trình Chính phủ để xem xét, báo cáo Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư dự án vào trước năm 2020.
128. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị cần sớm di dời ga Đà Nẵng ra khỏi trung tâm thành phố nhằm giải quyết tình trạng ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường trong khu vực.
Trả lời: Tại công văn số 2110/BGTVT-ĐTCT ngày 02/3/2018
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và UBND thành phố Đà Nẵng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu quy mô và các phương án đầu tư đảm bảo thuận lợi cho việc thực hiện dự án. Bộ Giao thông vận tải đã báo cáo Chính phủ về phương án đầu tư Dự án, theo đó dự kiến phương án huy động vốn bằng hình thức đầu tư công kết hợp doanh nghiệp tự đầu tư cho giai đoạn 1 (thành phố Đà Nẵng góp vốn thông qua khai thác toàn bộ quỹ đất khu vực nhà ga cũ khoảng 1192 tỷ đồng; Tổng công ty Đường sắt Việt Nam góp vốn thông qua hình thức Hợp tác kinh doanh khoảng 86 tỷ đồng; Ngân sách Trung ương khoảng 2115 tỷ đồng).
Trên cơ sở ý kiến các bộ, ngành có liên quan, Phó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tại văn bản số 914/VPCP-CN ngày 25/1/2018 của Văn phòng Chính phủ, theo đó đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Theo ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (văn bản số 22/BKHĐT-KCHTĐT ngày 02/1/2018), Bộ Tài chính (văn bản số 17458/BTC-ĐT ngày 25/12/2017: kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ Giao thông vận tải đã được phân bổ hết và dự án không thuộc đối tượng sử dụng nguồn vốn dự phòng trong giai đoạn 2016 - 2020; kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025 chưa được cấp có thẩm quyền thông qua chủ trương nên không có căn cứ để bố trí vốn cho dự án thống nhất về nguồn vốn để thực hiện dự án.
Do khó khăn chưa bố trí được nguồn vốn trung hạn, Bộ Giao thông vận tải đang giao Ban Quản lý dự án Đường sắt, Tư vấn thiết kế phối hợp với Sở Giao thông vận tải Đà Nẵng và các cơ quan có liên quan để rà soát, tiếp tục nghiên cứu phương án, hình thức đầu tư Dự án theo chỉ đạo của Chính phủ tại văn bản số 914/VPCP-CN ngày 25/1/2018 đảm bảo phù hợp kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025, để trình Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét quyết định theo quy định Luật Đầu tư công.
129. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Ngày 28/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 640/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch vị trí Cảng hàng không quốc tế Hải Phòng với diện tích gồm 4.500ha thuộc địa bàn 4 xã: Vinh Quang - Tiên Hưng - Đông Hưng - Tây Hưng (huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng) nhưng đến nay chưa được triển khai thực hiện, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất, ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực. Để các xã trong vùng quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Hải Phòng có điều kiện đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế (trong điều kiện chưa triển khai dự án) có thể thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực phát triển thủy sản công nghệ cao, đảm bảo chu kỳ sản xuất ổn định của doanh nghiệp cũng như xây dựng hạ tầng phục vụ đời sống nhân dân và công tác quản lý đất bãi bồi ven sông, ven biển. Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ sớm kiến nghị Quốc hội cho điều chỉnh lùi thời gian nghiên cứu quy hoạch sân bay Tiên Lãng đến sau năm 2050 để tạo điều kiện khai thác quỹ đất, đầu tư phát triển thủy sản, sản xuất.
Trả lời: Tại công văn số 2045/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
Trước đây, tại Quyết định số 21/QĐ-TTg ngày 8/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển GTVT ngành hàng không giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 thì đến năm 2030 đã xác định “Nghiên cứu trị trí, quy mô cảng hàng không quốc tế thứ 2 trong vùng Thủ đô Hà Nội khi nhu cầu vận tải hành khách hàng không trong vùng vượt quá 50 triệu hành khách/năm”. Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất của các bộ, ngành và UBND thành phố Hải Phòng, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch vị trí cảng hàng không Tiên Lãng tại Quyết định số 640/QĐ-TTg ngày 26/4/2011 với mục tiêu là cảng hàng không quốc tế, dự bị cho cảng hàng không quốc tế Nội Bài và trong điều kiện cảng hàng không quốc tế Cát Bi không thể mở rộng được nữa.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, sau khi cập nhật nhu cầu và xu hướng vận tải, đồng thời qua so sánh các phương án đầu tư thì Chính phủ đã quyết định mở rộng, nâng công suất khai thác cảng hàng không quốc tế Cát Bi, cũng như đang gấp rút xây dựng các phương án nâng công suất khai thác cảng hàng không quốc tế Nội Bài.
Gần đây nhất, theo nghiên cứu điều chỉnh Quy hoạch GTVT phát triển GTVT hàng không Việt Nam (điều chỉnh Quyết định 21/QĐ-TTg ngày 8/1/2009), trong giai đoạn đến năm 2030, Bộ GTVT đã đề xuất chưa xây dựng cảng hàng không quốc tế Hải Phòng tại Tiên Lãng mà tập trung phát triển cảng hàng không quốc tế Nội Bài và cảng hàng không quốc tế Cát Bi, cảng hàng không Quảng Ninh để đáp ứng nhu cầu vận tải. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang xem xét phê duyệt quy hoạch điều chỉnh này.
Tiếp thu kiến nghị của cử tri liên quan đến việc điều chỉnh tiến độ quy hoạch sân bay Tiên Lãng và trên cơ sở điều chỉnh Quy hoạch GTVT phát triển GTVT hàng không Việt Nam được duyệt, Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND thành phố Hải Phòng cập nhật quy hoạch để đảm bảo tính đồng bộ và tạo điều kiện ổn định cho hoạt động sản xuất của nhân dân.
130. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri lo lắng việc Quốc hội vừa phê duyệt đồng ý cho Chính phủ triển khai dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tuy nhiên kinh phí đầu tư rất lớn, có 8/11 dự án thành phần triển khai theo hình thức hợp đồng BOT, trong khi đó đầu tư theo phương thức BOT thời gian qua có nhiều sai sót, hạn chế. Đề nghị Chính phủ quản lý chặt chẽ trong triển khai tổ chức thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông tránh thất thoát, lãng phí.
Trả lời: Tại công văn số 1812/BGTVT-ĐTCT ngày 23/02/2018
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa 14 đã thông qua chủ trương đầu tư Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 (Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 của Quốc hội). Triển khai Nghị quyết của Quốc hội, để quản lý chặt chẽ, minh bạch, tránh thất thoát, lãng phí và khắc phục những hạn chế của hình thức BOT trong thời gian vừa qua, Bộ Giao thông vận tải đang phối hợp với các Bộ, ngành, xây dựng các cơ chế triển khai đầu tư, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thông qua, làm cơ sở để triển khai dự án. Theo đó, tất cả các dự án là tuyến mới, không cải tạo, nâng cấp đường hiện hữu; công tác lựa chọn nhà đầu tư phải đấu thầu công khai, minh bạch; tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu bằng 20% tổng vốn đầu tư; sử dụng hình thức thu phí kín để bảo đảm tính công bằng cho người sử dụng; phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán xây dựng công trình làm cơ sở xác định giá gói thầu lựa chọn nhà đầu tư...
131. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri cho rằng, các huyện biên giới địa bàn tỉnh An Giang có nhiều khu, điểm du lịch hấp dẫn, thu hút khách du lịch (mỗi năm An Giang đón khoảng 6,4 triệu lượt khách du lịch). Tuy nhiên, để đến các khu, điểm du lịch, du khách phải đi qua nội ô Thành phố Long Xuyên, nhưng đường giao thông nội ô thành phố hẹp, sầm uất, nên thường bị ùn tắc giao thông. Đề nghị Chính phủ sớm đầu tư dự án đường tránh TP.Long Xuyên để kết nối giao thông quan trọng trong vùng, thúc đẩy phát triển kinh tế tỉnh An Giang.
Trả lời: Tại công văn số 1914/BGTVT-KHĐT ngày 27/02/2018
Dự án Tuyến nối Quốc lộ 91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 1461/QĐ-BGTVT ngày 05/7/2011, là dự án thành phần nằm trong tổng thể Dự án Kết nối khu vực trung tâm đồng bằng Mê Kông. Tuy nhiên tại thời điểm đó không đủ nguồn vốn nên chưa thực hiện.
Trong quá trình thực hiện Dự án Kết nối khu vực trung tâm đồng bằng MêKông, trên cơ sở nguồn vốn dư sau đấu thầu (khoảng 91,9 triệu USD vốn vay OCR của ADB), Bộ GTVT đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Tuyến nối Quốc lộ 91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên thuộc Dự án kết nối khu vực trung tâm đồng bằng Mê Kông tại Quyết định số 612/QĐ-TTg ngày 5/5/2017 với Tổng mức đầu tư khoảng 2.110 tỷ đồng.
Đến nay, Bộ GTVT đã hoàn thành công tác lập, thẩm định Dự án đầu tư. Theo quy định của Luật Đầu tư công, Bộ GTVT đã có văn bản số 13146/BGTVT-KHĐT ngày 21/11/2017 và số 11707/BGTVT-KHĐT ngày 18/10/2017 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị bổ sung Dự án vào danh mục kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 và bổ sung vốn cho Dự án từ nguồn dự phòng ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020. Đồng thời, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ (Văn bản số 12465/BGTVT-KHĐT ngày 03/11/2017) cho phép phê duyệt Dự án để có cơ sở điều chỉnh Hiệp định vay và triển khai trước một số hạng mục như cắm cọc GPMB, rà phá bom mìn, thiết kế kỹ thuật... Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đang tiếp tục rà soát, cân đối nguồn vốn cho Dự án trong tổng số kế hoạch vốn nước ngoài, vốn đối ứng giai đoạn 2016-2020 đã được giao để bố trí cho Dự án, làm cơ sở bổ sung danh mục trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
132. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh, hiện tại tuyến Quốc lộ N1, đoạn từ huyện Tịnh Biên (An Giang) đi thị xã Hà Tiên (Kiên Giang) lưu lượng xe nhiều, nhưng mặt đường hẹp, có nhiều chỗ hư hỏng, xuống cấp. Đề nghị Chính phủ nâng cấp mở rộng đoạn đường này để đảm bảo lưu thông và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Trả lời: Tại công văn số 1914/BGTVT-KHĐT ngày 27/02/2018
Theo Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013, tuyến N1 chạy dọc theo biên giới Việt Nam, Campuchia, từ Đức Huệ (Long An) đến Hà Tiên (Kiên Giang), dài 235 km, hoàn thiện xây dựng, nâng cấp toàn tuyến tối thiểu đạt tiêu chuẩn đường cấp IV, 2 làn xe.
Hiện nay, tuyến N1 đoạn từ Tịnh Biên – Hà Tiên đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng hoàn thành từ năm 2011 với tiêu chuẩn đường cấp IV, 02 làn xe, đã cơ bản phù hợp với quy hoạch triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được phê duyệt. Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp, nhiều công trình quan trọng, cấp bách trong vùng cũng chưa cân đối được nguồn vốn để đầu tư, do vậy giai đoạn hiện nay chưa thể cân đối được vốn để đầu tư nâng cấp, mở rộng đoạn tuyến này. Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông trên tuyến.
133. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét, đầu tư nâng cấp tuyến Quốc lộ 34 đoạn Bảo Lạc - Pác Nhủng (dài khoảng 15km). Đồng thời, quan tâm đầu tư nâng cấp Quốc lộ 34 đoạn qua trung tâm huyện Bảo Lâm (đường qua đô thị - Thị trấn Pác Miều), dài khoảng 7km.
Trả lời: Tại công văn số 2025/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
Quốc lộ 34 đoạn Bảo Lạc - Pác Nhủng bao gồm cả đoạn qua trung tâm huyện Bảo Lâm từ km73 đến km121 dài 48km. Hiện trạng, như sau:
* Đoạn Km73 - Km74 và Km77 - Km82, tiêu chuẩn cấp V miền núi, Bn=6,5m, Bm=3,5m mặt đường láng nhựa, đang sử dụng bình thường.
* Đoạn Km74 - Km77 nền đường nhiều đoạn nền đường bị xói lở, mặt đường láng nhựa đã bị hư hỏng, do Nhà máy thủy điện Bắc Mê tích nước. Đoạn này cần thiết làm tuyến tránh (khoảng 5km) sẽ do nhà đầu tư thủy điện Pắc Mê đền bù.
- Đoạn Km 82 - Km84+500 (thị trấn Pắc Miều), tiêu chuẩn đường đô thị Bn=12m, Bm= 7,5m mặt đường bê tông Asphanlt đang sử dụng bình thường. Riêng cầu Pắc Miều tại Km83+250 thường xuyên bị ngập do nước dâng, cần thiết phải xây dựng lại.
- Đoạn Km84+500 - Km 121, tiêu chuẩn cấp V miền núi dài 36,5km. Trong năm 2015-2017 đã được sửa chữa nâng cấp mặt đường lên 5,5m láng nhựa (tiêu chuẩn cấp IV miền núi), hiện đang khai thác tốt.
Như vậy, trên đoạn tuyến này từ Km73 đến Km84+500 dài 14,5km có tiêu chuẩn là đường cấp V (thị trấn Pắc Miều là đường đô thị) theo đề nghị của cử tri phải đầu tư nâng cấp để đáp ứng nhu cầu vận tải là cần thiết. Tuy nhiên, do các nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016 -2020 phân bổ cho Bộ GTVT rất hạn hẹp chưa thể đầu tư xây dựng được. Trước mắt, để đảm bảo giao thông, Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN chỉ đạo Sở GTVT Cao Bằng làm việc với nhà đầu tư thủy điện Pắc Mê sớm hoàn thành tuyến tránh đoạn Km74 - Km77 và đề xuất giải pháp xây dựng cầu Pắc Miều để bổ sung vào kế hoạch bảo trì hàng năm.
134. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Quốc lộ 14 (đường Hồ Chí Minh) đoạn qua địa bàn thị trấn Đức Phong, xã Thọ Sơn huyện Bù Đăng có một số vị trí đặt mương thoát nước bất hợp lý, không đạt yêu cầu, khi mưa lớn nước tràn vào nhà và đất vườn của các hộ dân gây úng, xói lở và hư hại hoa màu, cũng như làm sạt lở, xói mòn một số đầu đường nhánh trên địa bàn huyện Bù Đăng đấu nối với Quốc lộ 14. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Ban Quản lý dự án Đường Hồ Chí Minh kiểm tra, rà soát và có hướng khắc phục, sửa chữa cho phù hợp.
Trả lời: Tại công văn số 2005/BGTVT-CQLXD ngày 28/02/2018
1. Dự án Đường Hồ Chí Minh đoạn qua tỉnh Bình Phước đã hoàn thành được Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước nghiệm thu cho phép đưa vào sử dụng từ tháng 6/2015, sau đó theo đề nghị của địa phương về xử lý một số tồn tại Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh và các đơn vị liên quan (Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát và nhà thầu) rà soát, kiểm tra để điều chỉnh bổ sung hệ thống thoát nước phù hợp với thực tế hiện trường. Đến nay Bộ GTVT đã chấp thuận các kiến nghị của địa phương tại các Văn bản: số 3303/BGTVT-CQLXD ngày 19/2/2015; số 10369/BGTVT-CQLXD ngày 7/8/2015; số 16836/BGTVT-CQLXD ngày 18/12/2015; số 12110/BGTVT-CQLXD ngày 14/10/2016 về việc bổ sung các hạng mục rãnh dọc, cống ngang đường, hệ thống cửa xả hạ lưu cống,…Tuy nhiên, quá trình triển khai các hạng mục bổ sung nêu trên gặp nhiều khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, do đó chưa triển khai tại được một số đoạn như: Km896+570 - Km896+590, vị trí cửa xả Km911+049,...Bộ GTVT đã gia hạn tiến độ thực hiện dự án tại các Văn bản: số 15139/BGTVT-CQLXD ngày 19/12/2016, số 11652/BGTVT-CQLXD ngày 16/10/2017.
2. Hiện nay Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục phối hợp với địa phương và các đơn vị liên quan kiểm tra, rà soát và khắc phục bổ sung các tồn tại cho phù hợp trong giai đoạn khai thác.
135. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri tiếp tục bức xúc kiến nghị Bộ GTVT chỉ đạo các đơn vị thi công, nhà thầu khẩn trương tích cực sửa chữa, khắc phục hư hỏng trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 19 (trong đó có đoạn qua các huyện Phù Mỹ, An Nhơn và Tây Sơn của tình Bình Định) theo trách nhiệm bảo hành đối với các đoạn của dự án mở rộng, nâng cấp, tuy mới đưa vào sử dụng đã xuống cấp, hư hỏng nặng.
Trả lời: Tại công văn số 1999/BGTVT-CQLXD ngày 28/02/2018
Đoạn tuyến Quốc lộ 1 và Quốc lộ 19 trên địa phận tỉnh Bình Định có 04 dự án, trong đó QL1 có 03 dự án (02 dự án theo hình thức hợp đồng BOT và 01 dự án sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ) và QL19 có 01 dự án BOT. Cả 03 dự án QL1 đã hoàn thành và thông xe vào ngày 14/10/2015, Dự án BOT QL19 hoàn thành và đưa vào khai thác tháng 4/2016.
Sau khi đưa vào khai thác, mật độ lưu thông và tải trọng khai thác trên các tuyến ngày càng tăng. Mặt khác, tại khu vực Miền Trung nói chung và khu vực tỉnh Bình Định nói riêng do điều kiện diễn biến bất thường, phức tạp của thời tiết, khí hậu đã có các đợt mưa lũ lớn kéo dài trong các năm 2016, 2017. Do mưa, lũ lớn kéo dài, nhiều đoạn đường bị ngập liên tục, trong đó, có các đoạn tuyến qua các huyện Phù Mỹ (Dự án QL1) và An Nhơn (các dự án QL1 và QL19).Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng cho mặt đường. Ngay khi phát hiện hư hỏng, Lãnh đạo Bộ GTVT và các cơ quan chức năng của Bộ đã thường xuyên tổ chức kiểm tra, chỉ đạo và đôn đốc các nhà đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu và các đơn vị liên quan khẩn trương tích cực sửa chữa, khắc phục hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông trong giai đoạn mưa lũ và tiến hành sửa chữa hoàn trả mặt đường theo trách nhiệm bảo hành của nhà thầu đảm bảo tiêu chuẩn của dự án.
Đến nay, toàn bộ các các vị trí bị hư hỏng mặt đường trên tuyến QL1 và QL19 đã được các nhà thầu hoàn thành việc sửa chữa mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông và tiếp tục sửa khôi phục triệt để, để đảm bảo ổn định khai thác lâu dài. Ngày 31/01/2018, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định đã đi kiểm tra việc sửa chữa hư hỏng mặt đường vàđánh giá tốt việc thực hiện các kiến nghị của cử tri.
Do địa bàn tỉnh Bình Định nằm trong vùng có biến đổi khí hậu đặc biệt, cần có giải pháp để tăng cường ứng phó đảm bảo bền vững công trình, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017 về việc khắc phục hậu quả bão lũ đối với dự án quốc lộ 1 đoạn qua các tỉnh từ Bình Định đến Khánh Hòa.
Đồng thời với việc sửa chữa hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông, hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017 nêu trên, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương triển khai các biện pháp sửa chữa, tăng cường mặt đường nhằm đảm bảo an toàn, độ ổn định, hiệu quả khai thác lâu dài cho công trình khi chịu tác động của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thườngcủa khu vực tỉnh Bình Định.
Để đảm bảo chất lượng và an toàn khai thác trên các tuyến QL1 và QL19, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Bình Định phối hợp chặt chẽ, chỉ đạo các cơ quan chức năng của Tỉnh có giải pháp quyết liệt, kịp thời kiểm soát, ngăn chặn tình trạng xe quá khổ, quá tải, đặc biệt tình trạng xe vận chuyển vật liệu xây dựng lưu thông trên tuyến.
136. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Đề nghị xem xét cho mở rộng Quốc lộ 14, 26, 27, việc nâng cấp chỉ mới thực hiện Quốc lộ 14, còn các Quốc lộ 26, 27 chủ yếu là sữa chữa. Các tuyến này mặt đường còn hẹp, xe lưu thông quá tải, thường xuyên có tai nạn giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 1957/BGTVT-KHĐT ngày 28/02/2018
Xác định vai trò quan trọng của các tuyến quốc lộ qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trong thời gian qua, Bộ GTVT đã và đang đầu tư, nâng cấp quốc lộ 14 (đường Hồ Chí Minh), một số tuyến tránh qua đô thị trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và một đoạn tuyến trên quốc lộ 26 theo hình thức Hợp đồng BOT. Tuy nhiên, do nguồn vốn được giao rất hạn chế nên đến nay Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn để nâng cấp, mở rộng quốc lộ 27 và các đoạn còn lại của quốc lộ 26 đoạn qua tỉnh Đắk Lắk. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến quốc lộ 26 và 27.
137. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Cử tri kiến nghị ngành chức năng cho kiểm tra lại hệ thống cống thoát nước trên tuyến Quốc lộ 1 đoạn km20-km25 khu vực xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Vì hiện nay vào mùa mưa nước hai bên Quốc lộ 1 không thoát được gây ngập úng cho nhà dân hai bên đường.
Trả lời: Tại công văn số 2009/BGTVT-KCHT ngày 28/02/2018
Đoạn tuyến QL.1 qua khu vực xã Hàm Minh có lý trình khoảng Km1724 - Km1729 thuộc phạm vi Dự án cải tạo nền, mặt đường QL.1 đoạn Phan Thiết - Đồng Nai theo hình thức hợp đồng BOT, do Chi nhánh BOT 319 - Sông Phan quản lý, khai thác và thu phí. Hiện tại, theo báo cáo của Chi nhánh BOT 319 - Sông Phan chỉ có đoạn Km1727+800 - Km1728+000 (P) chưa có hệ thống thoát nước và dọc tuyến là khu vực dân cư sinh sống, cách mép mặt đường 10m. Để đảm bảo thoát nước mặt đường, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục ĐBVN chủ trì, phối hợp Chi nhánh BOT 319 - Sông Phan kiểm tra hiện trường và làm việc với chính quyền địa phương để xem xét, bổ sung rãnh thoát nước khu vực nêu trên vào Dự án cải tạo nền, mặt đường QL.1 đoạn Phan Thiết - Đồng Nai và triển khai thực hiện trong năm 2018.
Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình thuận có ý kiến với UBND tỉnh Bình Thuận khi cấp đất, san lấp mặt bằng để xây dựng công trình dọc QL.1 phải có giải pháp thoát nước dọc đường; có biện pháp tuyên truyền, xử lý việc người dân địa phương đổ rác làm tắc hệ thống rãnh thoát nước, gây mất ổn định công trình, ô nhiễm môi trường và mất an toàn giao thông.
138. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Hiện nay do có tuyến đường vượt lũ nên lưu lượng người và xe các xã ngoài đê và ở các xã lân cận thuộc Nghệ An lưu thông qua cầu Thọ Tường huyện Đức Thọ là rất lớn đã gây ách tắc nhất là vào giờ cao điểm. Đề nghị Chính Phủ, Bộ Giao thông vận tải cho lập dự án xây dựng lại cầu Thọ Tường để tránh gây ùn tắc như hiện nay.
Trả lời: Tại công văn số 1836/BGTVT-KHĐT ngày 26/02/2018
Công trình cầu Thọ Tường nằm trên tuyến đường nối từ thị trấn Đức Thọ đi các xã ngoài đê của huyện Đức Thọ, đây là tuyến đường thuộc thẩm quyền quản lý, đầu tư của UBND tỉnh Hà Tĩnh nên ngân sách được giao của Bộ GTVT không thể chi cho đầu tư xây dựng công trình. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Hà Tĩnh chủ động cân đối ngân sách địa phương hoặc huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng công trình. Trong điều kiện ngân sách địa phương khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Hà Tĩnh báo cáo các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ vốn từ ngân sách Trung ương cho đầu tư xây dựng công trình.
139. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Sớm triển khai xây dựng 08 công trình cầu cứng trên địa bàn huyện Sốp Cộp đã được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt tại Quyết định số 622/QĐ-BGTVT ngày 02/03/2016 về phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương; trong đó có công trình cầu cứng vào Bản Huổi Phô, xã Sam Kha, huyện Sốp Cộp để giúp cho nhân dân thuận lợi trong việc đi lại và giao lưu trao đổi hàng hóa.
Trả lời: Tại công văn số 1994/BGTVT- KHĐT ngày 19/02/2018
Dự án “Xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương” (LRAMP) được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 622/QĐ-BGTVT ngày 02/03/2016 và Quyết định phê duyệt điều chỉnh số 1698/BGTVT-KHĐT ngày 15/6/2017 với nội dung chính: Đầu tư xây dựng 2.272 cầu dân sinh trên địa bàn 50 tỉnh/thành phố với kinh phí 5.798 tỷ đồng, trong đó tỉnh Sơn La được đầu tư xây dựng 62 cầu với kinh phí 160,87 tỷ đồng. Trong quá trình triển khai Dự án ở tỉnh Sơn La, Tổng cục Đường bộ Việt Nam (ĐBVN) là chủ đầu tư đã tiến hành rà soát, điều chỉnh danh mục để đảm bảo các cầu được xây dựng theo đúng tiêu chí của Dự án. Riêng 08 cầu trên địa bàn huyện Sốp Cộp được Tổng cục ĐBVN chia thành 02 nhóm dự án thành phần:
- 05 cầu thuộc dự án thành phần 5 đã được Tổng cục ĐBVN chấp thuận danh mục và đang tiến hành lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật, dự kiến trong tháng 03/2018 sẽ hoàn thành phê duyệt Báo cáo kinh tế kỹ thuật để triển khai các bước tiếp theo.
- 03 cầu thuộc dự án thành phần 7 đã được Tổng cục ĐBVN phê duyệt Báo cáo kinh tế kỹ thuật, trong tháng 4/2018 sẽ tổ chức lựa chọn nhà thầu để triển khai thi công và dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2018.
140. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Sớm xem xét quan tâm đầu tư nâng cấp xây dựng cầu bê tông cốt thép tại lý trình Km64+990 Quốc lộ 43 (bản suối Khem, xã Phiêng Luông, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) thay cho cầu tràn qua suối như hiện nay, vì mỗi khi mưa to, nước dâng ngập cầu tràn gây ách tắc giao thông dài ngày.
Trả lời: Tại công văn số 2026/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
Tại Km64+900 trên QL.43 hiện tại đã xây dựng tràn liên hợp, do địa hình tại vị trí tràn trũng thấp và một số hộ dân phía hạ lưu đã xây dựng kè lấn suối làm thắt hẹp dòng chảy nên khi xảy ra mưa lũ với lưu lượng nước lớn đã gây ngập úng làm ách tắc giao thông. Việc đầu tư xây dựng cầu tại vị trí này theo kiến nghị của cử tri là cần thiết. Tuy nhiên, do các nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016 -2020 phân bổ cho Bộ GTVT rất hạn hẹp chưa thể đầu tư xây dựng được. Trước mắt, để đảm bảo giao thông, Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN chỉ đạo Sở GTVT Sơn La thường xuyên kiểm tra kịp thời, tăng cường công tác khơi thông lòng cống, dòng chảy, rà soát đề xuất giải pháp xây dựng công trình thay thế đường tràn để sớm bổ sung vào kế hoạch bảo trì hàng năm. Đề nghị UBND tỉnh Sơn La chỉ đạo UBND huyện Mộc Châu tuyên truyền, vận động nhân dân giải tỏa dòng chảy hạ lưu để phát huy hiệu quả khai thác công trình.
141. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đầu tư, nâng cấp đoạn tuyến tại lý trình Km 76+700 đến Km 77+080 đường Quốc lộ 43, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và cống thoát nước giáp chân dốc ô tô, hiện tại đã hư hỏng, xuống cấp, cống nhỏ, không đảm bảo thoát nước khi có mưa, lũ, gây ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân khi tham gia giao thông tại khu vực này.
Trả lời: Tại công văn số 2026/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
Đoạn Km76+700 - Km77+080, QL.43 (thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) nằm trong khu vực đông dân cư, hai bên đường trước đây là hồ ao để chứa nước và tiêu thoát nước mưa; hiện tại các hộ dân đã san lấp để làm nhà ở và kinh doanh gây thắt hẹp dòng chảy phía hạ lưu cống Km76+910 (cống bản khẩu độ thoát nước L=2x2m) làm mất khả năng tiêu thoát nước của toàn bộ khu vực, dẫn đến khi có mưa lũ đoạn tuyến này thường xuyên bị ngập úng. Trước mắt, để đảm bảo giao thông, Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN chỉ đạo Sở GTVT Sơn La thường xuyên kiểm tra, tăng cường công tác khơi thông lòng cống, dòng chảy và đề xuất giải pháp nâng khẩu độ cống, sửa chữa mặt đường bổ sung vào kế hoạch bảo trì hàng năm. Đề nghị UBND tỉnh Sơn La chỉ đạo UBND huyện Mộc Châu tuyên truyền, vận động nhân dân giải tỏa dòng chảy hạ lưu để phát huy hiệu quả khai thác công trình.
142. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đầu tư nâng cấp, mở rộng rãnh dọc thoát nước tại lý trình Km190+700 đến Km191+800 Quốc lộ 6 (thuộc địa phận tiểu khu 10 đến tiểu khu 12, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu, Sơn La) để đảm bảo thoát nước mặt, lũ hàng năm tránh nước ngập, lụt vào các hộ gia đình làm thiệt hại tài sản, tính mạng, hoa màu của nhân dân.
Trả lời: Tại công văn số 2101/BGTVT-KCHT ngày 02/3/2018
1. Hệ thống rãnh dọc đoạn Km190+700 đến Km191+800 Quốc lộ 6 (thuộc địa phận tiểu khu 10 đến tiểu khu 12, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu, Sơn La) đã được sửa chữa, bổ sung cơ bản đầy đủ trong Dự án Quản lý tài sản đường bộ (VRAMP) bằng vốn vay Ngân hàng thế giới (WB), hoàn thành năm 2017, cụ thể như sau:
- Đoạn từ Km190+700-Km191+300 rãnh kết cấu bằng đá xây, nắp đậy bản bê tông cốt thép (BTCT), khẩu độ B = 1m;
- Đoạn từ Km191+300-Km191+800 rãnh dọc bên phải tuyến bằng đá xây, nắp đậy BTCT, khẩu độ B = 0,6m; bên trái tuyến rãnh bằng BTCT lắp ghép, bản đậy khẩu độ B = 0,6m.
Hiện tại hệ thống rãnh thoát nước dọc nêu trên phát huy được hiệu quả thoát nước tốt, không bị ngập úng.
2. Yêu cầu Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quản lý thực hiện tốt công tác bảo dưỡng thường xuyên (khơi thông, nạo vét kịp thời), nhất là trong mùa mưa lũ sắp tới, đảm bảo thoát nước và đảm bảo an toàn giao thông đi lại của nhân dân.
143. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Xem xét đầu tư cống hộp để thay thế cống tròn tại 03 vị trí (Km405 + 350, Km406 + 900), thuộc bản Mòn, xã Phiêng Ban và Km409 + 400 thuộc bản Lào Lay, xã Phiêng Ban, huyện Bắc Yên trên tuyến đường Quốc lộ 37. Do mỗi khi trời mưa lại xảy ra tắc cống dẫn đến nước lũ tràn lên mặt đường và vào nhà dân.
Trả lời: Tại công văn số 2026/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
Các cống tại Km405+350 có khẩu độ 3x1,0m; Km406+900 có khẩu độ L=6m và Km409+400 có khẩu độ 2x1,5m, bố trí để thoát nước lưu vực. Trong những năm qua, do thời tiết, khí hậu biến đổi bất thường, mưa lũ với cường độ và tần suất lớn cùng với việc nhân dân lấn chiếm dòng chảy (ngoài phạm vi quản lý đường), khi mưa lũ, kéo theo đất đá, cây cối làm lấp thượng lưu cống và tắc dòng chảy, nước tràn lên mặt đường gây ách tắc giao thông. Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN chỉ đạo Sở GTVT Sơn La tăng cường công tác khơi thông lòng cống và dòng chảy không để xảy ra tình trạng tắc cống, đồng thời rà soát đề xuất biện pháp xử lý và đưa vào kế hoạch bảo trì hàng năm.
144. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Quan tâm nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 279D và xem xét nâng cấp cống khu vực nhà Vân Mùi, bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La vì hiện nay mưa lũ nước tràn qua đường quốc lộ gây ngập úng một số hộ dân.
Trả lời: Tại công văn số 2026/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
- Về nâng cấp QL.279D: Quốc lộ 279D qua địa phận Sơn La dài 76km được nâng cấp từ đường tỉnh 106 (QĐ số 1173/QĐ-BGTVT, ngày 20/4/2017 của Bộ GTVT). Hiện nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đang tổng hợp các tuyến đường mới được nâng cấp từ đường địa phương lên thành Quốc lộ, bổ sung vào Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Sau khi được chấp thuận, Bộ GTVT sẽ xem xét việc triển khai đầu tư xây dựng đoạn tuyến này theo Luật định. Trước mắt, giao Tổng cục ĐBVN bảo trì bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì trung ương để đảm bảo an toàn giao thông.
- Về việc xử lý nước chảy tràn qua nhà dân đoạn cống Km73+190 và cống Km73+280 (khu vực nhà ông Vân Mùi, bản Két, xã Tạ Bú huyện Mường La): Tại vị trí Km73+190 có cống tròn khẩu độ D100 dài 15m, Km73+280 có cống tròn khẩu độ cống D100 dài 11m. Hiện tại 02 cống vẫn đảm bảo khả năng khai thác tốt. Tuy nhiên, trong thời gian qua người dân sinh sống dọc khu vực đoạn tuyến đã san lấp mặt bằng, xây dưng nhà (ngoài phạm vi HLGT) làm thay đổi dòng chảy phía thượng lưu, do đó khi xảy ra mưa lũ lưu lượng nước lớn không kịp chảy về cống đã tràn ra đường gây ngập úng tại Km73+250 (khu vực nhà Vân Mùi, bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La). Đề nghị UBND huyện Mường La có trách nhiệm giải phóng, hoàn trả dòng chảy thượng lưu cống và phối hợp đảm bảo mặt bằng để Sở GTVT đào rãnh dọc, khơi thống cống thoát nước.
145. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Cục Đường sắt Việt Nam phối hợp với chính quyền địa phương xem xét có giải pháp đảm bảo an toàn giao thông tại nút giao nhau giữa đường sắt với đường ĐH 10.TB (từ ngã ba Ngọc Phô đi xã Bình Chánh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Trả lời: Tại công văn số 1672/BGTVT-KCHT ngày 12/02/2018
1. Vị trí giao cắt giữa đường sắt với đường ĐH 10.TB tại Km845+785 tuyến đường sắt Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh thuộc xã Bình Chánh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam; hiện tại vị trí giao cắt nêu trên là lối đi tự mở. Năm 2014, Bộ GTVT có Công văn số 167/BGTVT-KCHT ngày 06/01/2014 về việc chấp thuận thành lập đường ngang tại Km845+875 tuyến đường sắt Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh theo đề nhị của UBND huyện Thăng Bình.
2. Thực hiện Công văn số 167/BGTVT-KCHT ngày 06/01/2014 của Bộ Giao thông vận tải, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã có Quyết định số 1670/QĐ-ĐS ngày 15/10/2014 về việc thành lập đường ngang cảnh bảo tự động tại Km845+785 tuyến đường sắt Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh; trong đó kinh phí khảo sát thiết kế, xây dựng đường ngang, giải phóng mặt bằng do UBND huyện Thăng Bình chi trả; kinh phí quản lý, bảo trì đường ngang thực hiện bằng nguồn vốn Sự nghiệp kinh tế của Nhà nước cấp hàng năm cho Tổng công ty Đường sắt Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay UBND huyện Thăng Bình chưa triển khai, xây dựng đường ngang nêu trên.
3. Để đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, đường bộ, đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam chỉ đạo cơ quan, đơn vị liên quan thực hiện quy định tại Điều 7, Quy chế phố hợp giữa Bộ Giao thông vận tải và UBND tỉnh Quảng Nam.
146. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Hiện nay, tình trạng tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra, gây chết người hoặc bị thương nghiêm trọng nhưng nhiều trường hợp gây tai nạn bỏ chạy, thiếu trách nhiệm trong việc hỗ trợ người bị nạn. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét đưa chương trình giáo dục đạo đức của người lái xe làm nội dung giảng dạy chính trong đào tạo lái xe.
Trả lời: Tại công văn số 2035/BGTVT-TCCB ngày 01/3/2018
Hiện nay Bộ GTVT đã ban hành Chương trình đào tạo lái xe gồm 05 Giáo trình: Luật Giao thông đường bộ, Nghiệp vụ vận tải, Cấu tạo và sửa chữa thông thường, Kỹ thuật lái xe và Đạo đức người lái xe ô tô. Đối với Giáo trình Đạo đức người lái xe đã xây dựng và đưa vào giảng dạy nội dung về trách nhiệm của người lái xe ô tô khi xảy ra tai nạn cũng như khi đi qua nơi xảy ra tai nạn. Tuy nhiên, để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông, Bộ GTVT sẽ thường xuyên cập nhật, bổ sung thêm quy định mới về trách nhiệm của người lái xe ô tô khi để xảy ra tai nạn cũng như khi đi qua nơi xảy ra tai nạn vào giáo trình Đạo đức người lái xe. Đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Chương trình đào tạo lái xe do Bộ Giao thông vận tải ban hành trong công tác đào tạo lái xe tại các cơ sở đào tạo lái xe trong toàn quốc.
147. Cử tri tỉnh Sóc Trăng kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải rà soát các biển báo chỉ dẫn giao thông trên Quốc lộ Nam Sông Hậu khu vực Phường 1, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng có một số sai sót về địa danh và khoảng cách giữa các địa phương gây khó khăn cho người tham gia giao thông.
Trả lời: Tại công văn số 2086/BGTVT-KCHT ngày 02/3/2018
Hệ thống biển báo chỉ dẫn giao thông trên Quốc lộ Nam Sông Hậu đi qua địa bàn tỉnh Sóc Trăng được lắp đặt từ khi dự án hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng. Trong quá trình khai thác, hệ thống biển báo trên toàn tuyến đã được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với hiện trạng tuyến. Tiếp thu kiến nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng, Bộ Giao thông vận tải đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam chỉ đạo Cục Quản lý đường bộ IV phối hợp với Ban An toàn giao thông, Sở Giao thông vận tải Sóc Trăng tiến hành kiểm tra, rà soát; sau khi có kết quả rà soát, đơn vị quản lý, bảo trì đã hoàn thành điều chỉnh 04 biển chỉ dẫn ( biển số I.414 ) tại các lý trình: Km 101 + 070, Km 141 + 320, Km 116 + 115 và Km 117 + 900 vào ngày 13/01/2018. Bộ Giao thông vận sẽ tiếp tục theo dõi, lắng nghe ý kiến của địa phương để kịp thời điều chỉnh, bổ sung các biển báo chỉ dẫn giao thông trên Quốc lộ Nam Sông Hậu nhằm đảm bảo thuận lợi, an toàn cho người tham gia giao thông.
148. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Công tác kiềm chế tai nạn giao thông trên tuyến quốc lộ gặp khó khăn do Cục Quản lý đường bộ 2 chưa hỗ trợ xử lý, khắc phục các điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông theo đề nghị của huyện như: dịch chuyển, đóng mở giải phân cách; bố trí đèn tín hiệu tại ngã 3 xã Kỳ Đồng (đường vào trung tâm huyện Kỳ Anh)... Đề nghị Cục Quản lý đường bộ 2, Bộ Giao thông vận tải quan tâm kịp thời xử lý.
Trả lời: Tại công văn số 2494/BGTVT-KCHT ngày 13/3/2018
1. Để đảm bảo ATGT trên QL.1, trong quá trình nâng cấp mở rộng đã được lắp đặt giải phân cách giữa và bố trí các điểm mở dải phân cách để thuận tiện cho người, phương tiện khi tham gia giao thông. Việc mở thêm dải phân cách giữa sẽ làm ảnh hưởng đến năng lực khai thác của tuyến đường và tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông. Vì vậy, cần phải hạn chế mở thêm dải phân cách giữa nhằm đảm bảo ATGT trên QL.1. Căn cứ tình trạng giao thông thực tế trên từng đoạn tuyến QL.1 cụ thể, cũng như nhu cầu của địa phương, trong quá trình quản lý khai thác Tổng cục ĐBVN đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan bổ sung, điều chỉnh các vị trí mở dải phân cách giữa cho phù hợp với điều kiện thực tế, với mục tiêu đảm bảo ATGT và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân.
2. Đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh, Tổng cục ĐBVN đã có Văn bản số 1109/TCĐBVN-ATGT ngày 01/03/2018, trong đó giao Cục QLĐB II phối hợp với Ban ATGT tỉnh Hà Tĩnh, Sở GTVT Hà Tĩnh và UBND huyện Kỳ Anh, căn cứ đề nghị của UBND huyện Kỳ Anh, kiểm tra hiện trường, nghiên cứu, xử lý cho phù hợp với thực tế.
149. Cử tri các tỉnh Đồng Tháp, Trà Vinh, Bình Thuận kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo sớm kiểm tra, rà soát lại tất cả các dự án BOT giao thông để kịp thời chấn chỉnh những điểm hạn chế, bất cập; xử lý dứt điểm việc gây mất trật tự, ùn tắc giao thông tại các trạm BOT, nhằm đảm bảo việc lưu thông, vận chuyển hàng hoá của người dân, doanh nghiệp được thuận lợi.
Trả lời: Tại công văn số 1862/BGTVT-ĐTCT ngày 26/02/2018
Việc kiểm tra, rà soát các dự án BOT giao thông để kịp thời chấn chỉnh những điểm hạn chế, bất cập đã được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ GTVT tại các Nghị Quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2017 số 84/NQ-CP ngày 06/9/2017, Nghị Quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 1/2018 số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 và văn bản số 13856/VPCP-CN ngày 28/12/2017 của Văn phòng Chính phủ. Bộ GTVT đã có văn bản số 10843/BGTVT-ĐTCT ngày 25/9/2017 báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả rà soát các dự án BOT do Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã có văn bản đề nghị các địa phương có ý kiến về các bất cập liên quan đến dự án BOT trên địa bàn. Hiện nay, Bộ GTVT đang tổng hợp, dự kiến sẽ tiếp tục báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong quý I/2018.
Về xử lý mất trật tự, ùn tắc giao thông tại các trạm BOT, ngày 18/01/2018, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 82/CĐ-TTg về đảm bảo an ninh trật tự tại các trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức Hợp đồng BOT, trong đó có yêu cầu các Bộ Công an, Bộ GTVT, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Uỷ ban nhân dân các tỉnh có sự phối hợp chặt chẽ, tập trung các giải pháp giải quyết các bất cập đang diễn ra tại các dự án BOT giao thông, nhằm sớm lập lại an ninh, trật tự tại các trạm BOT trên toàn quốc. Hiện nay, các cơ quan liên quan đang tích cực triển khai các biện pháp để giải quyết tình hình mất trật tự, an ninh tại các trạm BOT giao thông theo chỉ đạo tại Công điện số 82/CĐ-TTg.
150. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Tại khu vực Km44 đường cao tốc Dầu Giây – Long Thành – TP.HCM hai bên không có đường dân sinh, gây khó khăn cho người dân khi lưu thông và vận chuyển nông sản, trong khi đó mức phí quy định đóng tại Trạm thu phí lại quá cao ảnh hưởng đến cuộc sống người dân. Cử tri đề nghị Bộ GTVT quan tâm, xem xét việc mở đường dân sinh cho người dân đi lại được thuận tiện hơn.
Trả lời: Tại công văn số 2137/BGTVT-KCHT ngày 05/3/2018
- Việc bổ sung đường gom dân sinh, mương thoát lũ: trong quá trình triển khai thực hiện, UBND tỉnh Đồng Nai đã có các Văn bản số: 6626/UBND-ĐT ngày 21/7/2014, số 11726/UBND-ĐT ngày 17/12/2014 đề nghị bổ sung đường gom dân sinh và mương thoát lũ. Sau khi tổng hợp ý kiến của UBND tỉnh Đồng Nai, Bộ GTVT đã có các văn bản chấp thuận bổ sung các hạng mục đường gom dân sinh và mương thoát lũ tại Quyết định số 5097/QĐ-BGTVT ngày 31/12/2014, Công văn số 6137/BGTVT-KHĐT ngày 28/5/2014, số 10350/BGTVT-KHĐT ngày 20/8/2014. Các hạng mục bổ sung theo đề xuất của UBND tỉnh Đồng Nai nêu trên đã được đầu tư và hoàn thành trong thời gian đầu tư xây dụng dự án (trước 30/6/2016).
- Ngày 15/11/2016, Bộ GTVT có văn bản số 13561/BGTVT-KHĐT chỉ đạo Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam thực hiện dự án theo tiến độ của Khoản vay 2451/VIE (30/6/2016), đồng thời, đề nghị địa phương bố trí nguồn vốn thực hiện các công việc còn lại.
- Ngày 17/11/2016, UBND tỉnh Đồng Nai có Công văn số 11021/UBND-ĐT đề nghị bổ sung đường gom dân sinh, mương thoát lũ. Tại thời điểm này, tiến độ dự án thực hiện theo Khoản vay 2451/VIE đã kết thúc, các công việc của dự án cũng đã hoàn thành. Bộ GTVT đã có Công văn số 14990/BGTVT-KHĐT ngày 15/12/2016 nêu rõ Hiệp định vay 2451/VIE đã hết hạn, việc bổ sung thêm đường gom dân sinh, mương thoát lũ vào dự án là không phù hợp.
- Về việc đầu tư mở rộng kết nối giữa đường Hương lộ 10 với đường ĐT.769 và đầu tư xây dựng các tuyến đường gom dân sinh, mương thoát nước thuộc dự án đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây, tại Văn bản số 6572/UBND-ĐT ngày 7/7/2017 Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo, giao Sở Kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối hợp với UBND huyện Cẩm Mỹ và các Sở ngành có liên quan xem xét, đề xuất nguồn vốn đầu tư đường gom dân sinh, mương thoát lũ đoạn qua huyện Cẩm Mỹ trình UBND tỉnh xử lý trong tháng 7/2017”.
- Đến nay, Dự án đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây đã hoàn thành toàn bộ công tác xây dựng, hiệp định khoản vay của dự án đã kết thúc, không thể thực hiện việc đầu tư từ nguồn vốn dự án cho việc xây dựng tuyến đường gom tại Km 44, huyện Cẩm Mỹ. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai chỉ đạo các cơ quan liên quan của tỉnh thực hiện theo chỉ đạo của tỉnh Đồng Nai tại Văn bản số 6572/UBND-ĐT ngày 7/7/2017 để thực hiện việc xây dựng đường gom tại Km 44, huyện Cẩm Mỹ tạo thuận lợi cho người dân trong sinh hoạt và sản suất.
151. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri huyện Đức Hòa chưa đồng tình với văn bản trả lời của Bộ Giao thông vận tải về thời gian thi công và tiền đền bù cho người dân trong vùng dự án vòng xoay Hiệp Hòa, tiếp tục kiến nghị với Bộ GTVT chi trả tiền đền bù cho các hộ dân trong vùng dự án được thuận lợi tạo điều kiện cho các hộ dân sống ổn định.
Trả lời: Tại công văn số 2612/BGTVT-ĐTCT ngày 15/3/2018
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 872/TTg-KTN Ngày 19/06/2015 về đầu tư đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa theo hình thức BOT, Bộ GTVT đã phê duyệt Đề xuất dự án tại Quyết định số 190/QĐ-BGTVT ngày 19/01/2017, trong đó kinh phí đền bù GPMB đoạn trên địa bàn tỉnh Long An khoảng 156 tỷ đồng.
Trong quá trình lập Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án và trên cơ sở tổng kết đánh giá hình thức đầu tư BOT thời gian qua thì việc đầu tư dự án với quy mô đường cấp III (quốc lộ) hai làn xe, hình thức thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo lượt (thu giá hở) có một số tồn tại như:
- Hình thức thu giá lượt chỉ đáp ứng được tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm thu giá đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả giá dịch vụ trong khi đó những người đi quãng đường dài 40÷50 km ở khoảng giữa hai trạm thu giá thì vẫn không phải trả), đây là nguyên nhân dẫn đến phản ứng của tài xế thời gian qua.
- Trước đây, Bộ GTVT nghiên cứu phương án đặt 02 trạm thu giá (theo nguyên tắc chỉ thu giá 01 lần đối với phương tiện đi qua cả 02 trạm) với lộ trình tăng giá 12%/3 năm trong suốt vòng đời của Dự án để đầu tư cho toàn tuyến dài 72,57km. Đến thời điểm hiện nay, lộ trình tăng giá 12%/3 năm trong suốt vòng đời của Dự án là không đủ cơ sở do các yếu tố hình thành giá phụ thuộc vào các yếu tố thực tế biến động theo từng giai đoạn, việc xác định lộ trình tăng giá cố định là chưa phù hợp với nguyên tắc định giá tại Luật giá số 11/2012/QH13.
Theo Quy hoạch chi tiết đường Hồ Chí Minh được phê duyệt tại Quyết định 194/QĐ-TTg ngày 15/02/2012, tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa được quy hoạch hoàn thiện theo tiêu chuẩn đường cao tốc 04 làn xe sau năm 2020. Do vậy, Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA đường Hồ Chí Minh nghiên cứu phương án đầu tư theo hướng quy mô cao tốc và áp dụng hình thức thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ trên số km thực đi để đảm bảo tính công bằng cho người sử dụng. Trong trường hợp nghiên cứu phương án đầu tư theo quy mô cao tốc khả thi, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa quy mô cao tốc 04 làn xe theo hình thức Hợp đồng BOT để sớm triển khai dự án và giải quyết các bất cập nêu trên.
152. Cử tri tỉnh Hưng Yên và thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri hoan nghênh việc Quốc hội tổ chức giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật trong việc đầu tư xây dựng các công trình giao thông theo hình thức BOT. Trong các sai phạm đã được Chính phủ, Bộ GTVT tiếp thu xong cử tri chưa hài lòng về việc xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước (có trách nhiệm người đứng đầu) trong việc quyết định đầu tư, phê duyệt dự toán, chỉ định thầu, nghiệm thu không đúng quy định gây thất thoát ngân sách nhà nước mà không bị xử lý trách nhiệm.
Trả lời: Tại công văn số 2103/BGTVT-ĐTCT ngày 02/3/2018
Để phát triển nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, việc đề ra giải pháp xã hội hóa đầu tư để huy động nguồn lực ngoài ngân sách là xu hướng tất yếu khách quan, là giải pháp hữu hiệu để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và nâng cao chất lượng dịch vụ giao thông vận tải, là chủ trương đúng đắn của Đảng đã được thể hiện tại Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Được sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và sự phối hợp hiệu quả của các bộ, ngành, cũng như sự đồng tình ủng hộ của chính quyền các địa phương, sau hơn 5 năm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải đã hoàn thành nhiều dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT và BT với quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu đầu tư chung của ngành, nhất là trong điều kiện Nhà nước còn nhiều khó khăn, với nhiều áp lực về nợ công. Cho tới nay, nhiều tuyến quốc lộ đã được nâng cấp, mở rộng; hình thành nhiều tuyên cao tốc đạt tiêu chuẩn quốc tế... cải thiện đáng kể điều kiện đi lại, từng bước đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa ngày càng tăng của người dân và góp phần đổi mới, hoàn thiện bức tranh hạ tầng giao thông vận tải tại Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy việc đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT, BT cũng bộc lộ một số tồn tại về cơ chế chính sách và công tác quản lý nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện như sau:
1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hình thức đầu tư BOT chưa hoàn thiện và đồng bộ, một số quy định chưa phù hợp thực tế và thông lệ quốc tế; quá trình xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh hình thức BOT chưa lường hết được các tác động đối với người sử dụng đường.
2. Việc đầu tư cải tạo, mở rộng và hiện đại hóa các công trình hiện có là lĩnh vực được Chính phủ khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT quy định tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CP. Cơ bản các dự án đều được Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư sau khi có ý kiến đồng thuận của các bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, việc cải tạo, mở rộng, nâng cấp các công trình giao thông hiện có làm người dân đang được sử dụng đường bộ không phải trả phí sẽ phải trả phí, không còn sự lựa chọn miễn phí gây ra tác động nhất định.
3. Công tác lập, thẩm định, tính toán phương án tài chính và phê duyệt dự án của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn một số nội dung chưa hợp lý; công tác thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán của nhà đầu tư còn bất cập, tồn tại một số sai sót.
4. Công tác lựa chọn nhà đầu tư còn bất cập, các dự án cơ bản áp dụng hình thức chỉ định thầu. Mặc dù việc chỉ định thầu được thực hiện theo quy định pháp luật nhưng hình thức này còn thiếu sự cạnh tranh và có dư luận cho rằng còn thiếu minh bạch; năng lực nhà đầu tư trong nước còn hạn chế; chưa thu hút được nhà đầu tư, tổ chức tín dụng nước ngoài tài trợ vốn.
5. Việc giám sát thi công chưa chặt chẽ, một số dự án chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác quyết toán còn chậm, khó khăn trong việc xác định giá trị đầu tư thực tế, xác định thời gian thu giá hoàn vốn của dự án.
6. Công tác lựa chọn vị trí đặt trạm thu giá và chính sách giá tại một số dự án còn bất cập nên chưa nhận được sự đồng thuận của người dân. Chưa có giải pháp hiệu quả để quản lý nguồn thu của các trạm thu giá, còn có ý kiến cho rằng có hiện tượng gian lận trong thu giá.
Thực tế với vai trò Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Bộ Giao thông vận tải cũng chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình tổ chức thực hiện, đồng thời Bộ Giao thông vận tải đã chủ động có văn bản số 4771/BGTVT-TC ngày 28/4/2014 đề nghị Kiểm toán Nhà nước hỗ trợ kiểm toán các dự án BOT để kịp thời chấn chỉnh các tồn tại ngay trong quá trình thi công, tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, phòng ngừa, ngăn chặn những sai sót, gây thiệt hại cho Nhà nước trong quá trình thi công công trình.
Tính đến thời điểm này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã triển khai nhiều cuộc thanh tra, kiêm toán đối với các dự án BOT, BT như: Thanh tra Chính phủ đã có kết luận 08 dự án, Thanh tra Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có kết luận 14 dự án, Thanh tra Bộ Giao thông vận tải đã có kết luận 30 dự án, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán 47 dự án, Thanh tra Bộ Xây dựng có kết luận 01 dự án. Đồng thời, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã giám sát trong hơn 07 tháng đối với các dự án BOT do Bộ GTVT là CQNNCTQ và đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017.
Tại kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán và đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều khẳng định tính đúng đắn của chủ trương kêu gọi đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức đối tác công tư trong điều kiện nguồn lực ngân sách hạn hẹp, chỉ ra một số tồn tại trong quá trình thực hiện đầu tư các dự án BOT trong thời gian vừa qua nhưng không phát hiện có tham nhũng, lãng phí hoặc sai phạm trong quyết định chủ trương đầu tư, vị trí trạm thu giá.
Đối với các tồn tại sai sót thuộc chủ quan, Bộ Giao thông vận tải đã nghiêm túc tiếp thu, rút kinh nghiệm và đã cập nhật điều chỉnh các sai sót theo ý kiến kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm toán. Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải đã yêu cầu các tập thể, cá nhân có liên quan nghiêm túc rút kinh nghiệm, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân để xử lý theo quy định.
153. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri rất quan tâm đến vấn đề các dự án BOT và thấy được từ năm 2011-2015 là giai đoạn thành công trong thu hút nguồn vốn từ xã hội cho các dự án giao thông theo hình thức BOT, nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng cần đánh giá lại các hạn chế như vẫn còn thiếu các cơ chế phối hợp để thu hút nhà đầu tư; năng lực nhiều nhà đầu tư còn chưa đáp ứng, bố trí các trạm thu phí còn chưa hợp lý gây bức xúc cho người dân; công tác quản lý chất lượng còn thiếu, khảo sát thiết kế còn hạn chế, vẫn còn có công trình kém chất lượng... Đề nghị nhà nước cần phải có giải pháp quản lý hiệu quả các dự án đầu tư hạ tầng giao thông theo hình thức BOT hơn nữa.
Trả lời: Tại công văn số 1886/BGTVT-ĐTCT ngày 27/02/2018
Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri về việc cần đánh giá các hạn chế của hình thức đầu tư BOT. Do vậy, tháng 6/2016 Bộ GTVT đã tổ chức “Hội nghị đánh giá công tác đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp đồng BOT và BT giai đoạn 2011÷2015 do Bộ GTVT quản lý”; đồng chủ trì Hội nghị có Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và được Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng tham dự, chỉ đạo; tham dự hội nghị còn có các cơ quan thanh tra, kiểm toán, các chuyên gia, các hiệp hội vận tải và tổ chức tín dụng... Hội nghị đã đánh giá khách quan, toàn diện và thống nhất với những kết quả đạt được, cũng như chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Kết quả hội nghị đã được Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Ủy Ban kiểm tra Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan liên quan tại văn bản số 7271/BGTVT-ĐTCT ngày 27/6/2016.
Ngoài ra, thực hiện kế hoạch giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT, Chính phủ đã có báo cáo số 334/BC-CP ngày 10/8/2017, Đoàn giám sát có báo cáo số 177/BC-ĐGS ngày 11/8/2017 báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức Hợp đồng BOT. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức Hợp đồng BOT.
Bên cạnh đấy, các cơ quan thanh tra, kiểm toán đã và đang tiến hành thanh tra, kiểm toán các dự án BOT, trong các thông báo kết luận thanh tra, kiểm toán cũng đánh giá cụ thể mặt được, mặt còn hạn chế, tồn tại và kiến nghị cụ thể đối với từng dự án.
Để rà soát, khắc phục các tồn tại của hình thức đầu tư BOT, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều Nghị quyết và văn bản (Nghị Quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2017 số 84/NQ-CP ngày 06/9/2017, Nghị Quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 1/2018 số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 và văn bản chỉ đạo số 13856/VPCP-CN ngày 28/12/2017 của Văn phòng Chính phủ), chỉ đạo Bộ GTVT chủ trì rà soát, đánh giá quá trình triển khai, thực hiện, vận hành khai thác các dự án BOT, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế để tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức Hợp đồng BOT.
Hiện nay, Bộ GTVT đang nghiêm túc thực hiện các chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tại các Nghị quyết và văn bản nêu trên.
154. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ xem xét, bỏ trạm thu phí tại đầu ngã vào cù lao Thới Sơn, vì tại Quyết định số 2227/QĐ-TTg ngày 18/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” thì Thới Sơn nằm trong cụm cù lao Long, Lân, Quy, Phụng (Tiền Giang, Bến Tre) là 01 trong 5 khu du lịch quốc gia.
Trả lời: Tại công văn số 2519/BGTVT-TC ngày 13/3/2018
Theo báo cáo của các đơn vị liên quan: Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Vụ Đối tác công tư, Công ty TNHH BOT cầu Rạch Miễu tại các văn bản số 918/TCĐBVN-TC ngày 09/02/2018, 133/ĐTCT ngày 05/02/2018 và 31/BOT.TC-HC ngày 05/02/2018 Bộ Giao thông vận tải có ý kiến như sau:
Dự án BOT cầu Rạch Miễu, QL60 qua 02 tỉnh Tiền Giang và Bến Tre được Bộ trưởng Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 2171/QĐ-GTVT ngày 28/7/2003. Hình thức đầu tư tuân thủ theo Nghị định số 77/NĐ-CP ngày 18/6/1997 của Chính phủ về việc ban hành quy chế đâu tư theo hình thức BOT áp dụng cho đầu tư trong nước. Dự án chia làm 02 giai đoạn gồm:
- Giai đoạn 1: Thực hiện đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu, QL60, tỉnh Tiền Giang, tỉnh Bến Tre theo hình thức BOT đã được hoàn thành đưa vào khai thác với thời gian thu dự kiến kết thúc tháng 8/2022. Tổng mức đầu tư dự kiến là 1.187 tỷ đồng.
- Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng 04 đoạn tuyến trên QL60 nối cầu Rạch Miễu đến cầu Cổ Chiên, tỉnh Bến Tre được Bộ GTVT phê duyệt và ký Phụ lục hợp đồng số 16/PLHĐ.BOT-BGTVT ngày 16/12/2016 giữa Bộ GTVT với nhà đầu tư là Liên danh Công ty Cổ phần đầu tư cầu đường CII - Công ty Cổ phần thương mại nước giải khát Khánh An và DNDA là Công ty TNHH BOT cầu Rạch Miễu. Thời gian dự kiến thu từ 01/01/2019 đến tháng 8/2033. Tổng mức đầu tư dự kiến là 1.752 tỷ đồng.
Về hợp đồng Dự án: Bộ GTVT và Liên danh CIENCO1 - CIENCO5 - CIENCO6 đã ký hợp đồng chính thức số 4975/2003/GTVT-KHĐT tháng 10/2003 và các PLHĐ số: 5415/2004/GTVT-KHĐT ngày 06/10/2004 và 5447/2006/GTVT-KHĐT ngày 12/9/2006 thực hiện đầu tư xây dựng Dự án cầu Rạch Miễu, QL60. Bộ GTVT và Liên danh Công ty Cổ phần đầu tư cầu đường CII- Công ty Cổ phần thương mại nước giải khát Khánh An (NĐT), Công ty TNHH BOT cầu Rạch Miễu (DNDA) đã ký Hợp đồng chính thức số 13/HĐ.BOT-BGTVT ngày 15/5/2015 và PLHĐ số 16/PLHĐ.BOT-BGTVT ngày 16/12/2016 về thực hiện Giai đoạn 2: Đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng 04 đoạn tuyến QL60 nối cầu Rạch Miễu đến cầu Cổ Chiên, tỉnh Bến Tre.
Trên cơ sở kết quả tính toán tổng mức đầu tư, lưu lượng thực tế tại thời điểm nghiên cứu và lưu lượng dự báo cho giai đoạn tiếp theo đã được cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, tại Hợp đồng dự án nêu trên, Bộ GTVT và Liên danh CIENCO1 - CIENCO5 - CIENCO6 đã xác định xây dựng 02 trạm thu phí: 01 trạm chính ở tỉnh Bến Tre và 01 trạm phụ tại cồn Thới Sơn tỉnh Tiền Giang để thu phí hoàn vốn đảm bảo tính khả thi dự án. Việc lập trạm thu phí này đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, được sự đồng thuận của UBND tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre.
Việc thu giá tại trạm thu phụ cồn Thới Sơn để đảm bảo sự công bằng đối với người sử dụng công trình dự án, nếu xem xét bỏ trạm thì phải bố trí kinh phí mua lại trạm vì sẽ ảnh hưởng đến phương án tài chính của dự án. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định cho môi trường đầu tư phù hợp với Hợp đồng dự án, các đơn vị đã kiến nghị Bộ GTVT tiếp tục giữ nguyên trạm thu phụ tại cồn Thới Sơn để hoàn vốn cho dự án BOT cầu Rạch Miễu, QL60 qua hai tỉnh Tiền Giang và Bến Tre.
155. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Cử tri Thái Nguyên không đồng tình với việc đặt trạm thu phí BOT trên Quốc lộ 3 cũ, thuộc địa phận xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, hoàn vốn cho nhà đầu tư xây dựng tuyến đường Thái Nguyên - Chợ Mới.
Trả lời: Tại công văn số 1946/BGTVT-ĐTCT ngày 27/02/2018
Dự án đầu tư xây dựng đường Thái Nguyên - Chợ Mới thuộc quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Để tạo điều kiện lưu thông thuận lợi, giúp địa phương phát triển kinh tế - xã hội, từ năm 2009 Bộ Giao thông vận tải đã nghiên cứu triển khai đầu tư đường Thái Nguyên - Chợ Mới bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn Nhà nước rất khó khăn, không thể triển khai đầu tư Dự án.
Để có thể triển khai đầu tư, trên cơ sở ý kiến thống nhất của UBND tỉnh Thái Nguyên tại văn bản số 1255/UBND-KTN ngày 27/5/2014 và UBND tỉnh Bắc Kạn tại văn bản số 1696/UBND-XDCB ngày 02/6/2014, Bộ Giao thông vận tải đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án xây dựng đường Thái Nguyên - Chợ Mới (Bắc Kạn) và nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 3 đoạn Km75 - Km100 theo hình thức BOT tại văn bản số 5136/VPCP-KTN ngày 09/7/2014. Vị trí đặt 02 trạm thu phí hoàn vốn cho Dự án (trên Quốc lộ 3 cũ và trên đường Thái Nguyên - Chợ Mới) đã được sự thống nhất của Bộ Tài chính tại văn bản số 15300/BTC-HCSN ngày 26/10/2015 và UBND tỉnh Thái Nguyên tại văn bản số 5020/UBND-CNN ngày 20/12/2016.
Đến nay dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng, Nhà đầu tư đã triển khai thu phí tại trạm trên đường Thái Nguyên - Chợ Mới. Đối với trạm thu phí trên Quốc lộ 3 cũ, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu phương án thu phí phù hợp, hạn chế tối đa tác động đến người dân xung quanh khu vực đặt trạm, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước - nhà đầu tư - người sử dụng, tuân thủ quy định của pháp luật.
Trong điều kiện nguồn vốn Nhà nước khó khăn, Bộ Giao thông vận tải rất mong nhận được sự đồng hành, chia sẻ của cử tri đối với việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của đất nước.
156. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Việc thi công cải tạo, nâng cấp QL1A làm sụt lún, nứt nhà dân dọc hai bên đường và việc mở các lối đi ngang không phù hợp, gây khó khăn giao thông, bức xúc cho người dân trên địa bàn huyện Quảng Xương. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải, Ban Quản lý dự án 1 xem xét trách nhiệm của nhà thầu, Tư vấn, trách nhiệm quản lý, thẩm định và có chỉ đạo khắc phục, đền bù cho nhân dân.
Trả lời: Tại công văn số 2040/BGTVT-CQLXD ngày 01/3/2018
Dự án mở rộng, nâng cấp QL1 đoạn qua địa phận tỉnh Thanh Hóa đã được Bộ GTVT chỉ đạo các đơn vị triển khai thi công hoàn thành và đưa vào khai thác vào cuối năm 2014 đầu năm 2015. Trong quá trình thiết kế, thi công dự án, Bộ GTVT đã chỉ đạo và yêu cầu Chủ đầu tư, các đơn vị TVTK, Nhà thầu thi công nghiêm túc thực hiện đúng điều kiện Hợp đồng, có giải pháp thiết kế phù hợp, giải pháp thi công hợp lý để giảm thiểu tác động đến môi trường và dân sinh.
Sau khi dự án hoàn thành và đưa vào khai thác, sử dụng, trước một số bất cập tại các vị trí đóng, mở dải phân cách giữa ảnh hưởng đến việc đi lại, sinh hoạt hàng ngày của người dân hai bên đường, Bộ GTVT đã chỉ đạo các Chủ đầu tư, Nhà đầu tư, Ban QLDA, Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với Ban ATGT các tỉnh … kiểm tra, rà soát lại thiết kế và thực tế thi công hệ thống dải phân cách giữa ngoài hiện trường để thống nhất các vị trí đóng, mở dải phân cách, bổ sung hệ thống báo hiệu ATGT đảm bảo quy định hiện hành, đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác, sử dụng.
Đến thời điểm này, các dự án mở rộng, nâng cấp QL1 đoạn Thanh Hóa - Cần Thơ đi vào hoạt động đã phát huy hiệu quả đầu tư, góp phần giảm thiểu ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông. Bộ GTVT xin chia sẻ một số bất tiện trong sinh hoạt của các hộ dân hai bên tuyến đường, tuy nhiên việc mở thêm các vị trí di chuyển ngang qua đường sẽ vi phạm các quy định về thiết kế và khiến giao thông trở nên hết sức phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông.
2. Về việc thi công cải tạo, nâng cấp QL1A làm sụt lún, nứt nhà dân dọc hai bên đường:
Trong quá trình thực hiện dự án mở rộng, nâng cấp QL1A đoạn Thanh Hóa - Cần Thơ (trong đó có đoạn qua địa bàn huyện Quảng Xương), một số đoạn tuyến đi qua khu vực đông dân cư sinh sống nằm trong phạm vi thực hiện dự án đã được di dời nhà cửa phục vụ công tác GPMB theo quy định. Tuy nhiên một số hộ dân có nhà ở, công trình nằm ngoài phạm vi GPMB bị ảnh hưởng do việc thi công xây dựng nhưng chưa được đền bù, hỗ trợ đủ theo phương án được duyệt do giá trị bồi thường, hỗ trợ đối với các trường hợp này vượt quá hạn mức, trách nhiệm chi trả của bảo hiểm.
Do chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý để tiếp tục chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét việc cho phép sử dụng nguồn vốn của các dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Thanh Hóa – Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên để chi trả bồi thường thiệt hại ngoài phần thuộc trách nhiệm do bảo hiểm chi trả, tuy nhiên đề xuất của Bộ GTVT chưa được chấp thuận. Bộ Giao thông vận tải đang tiếp tục nghiên cứu, tìm giải pháp, nguồn vốn và báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định làm cơ sở thực hiện. Trong thời gian chờ cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, đề nghị UBND tỉnh Thanh Hóa, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa tuyên truyền, giải thích để người dân được biết và đồng thuận.
157. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải quan tâm, bồi thường giải phóng mặt bằng diện tích đất của các hộ dân nằm trước khu di tích Bộ giao thông vận tải tại thôn Múc Roòm, xã Tuân Lộ, huyện Sơn Dương, để xây dựng khuôn viên, tôn tạo khu di tích của ngành giao thông vận tải.
Trả lời: Tại công văn số 2027/BGTVT-KHĐT ngày 01/3/2018
Khu di tích của ngành Giao thông Vận tải tại thôn Múc Ròm, xã Tuân Lộ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang được Bộ GTVT đầu tư xây dựng năm 2010 và cải tạo lại vào năm 2015 với nguồn kinh phí huy động từ đóng góp của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành giao thông vận tải, bao gồm các hạng mục: nhà che Bia lưu niệm, tường rào bao quanh, đường đi bộ dẫn từ khu nhà che Bia ra đường chính, đồng thời Bộ cũng đã đầu tư xây dựng 3 km đường bê tông xi măng từ QL.2C dẫn vào khu di tích và 01 công trình cầu treo dân sinh vượt qua sông Phó Đáy với tổng kinh phí hơn 9,0 tỷ đồng. Hiện tại, diện tích mặt bằng khu di tích còn nhỏ, đường lên khu vực đặt bia còn hẹp, thiếu các công trình phụ trợ như bãi để xe, khu nhà chờ và khuôn viên khu di tích..., việc đề nghị giải phóng mặt bằng diện tích đất của các hộ dân nằm trước khu di tích để xây dựng hoàn chỉnh khuôn viên khu di tích của ngành giao thông vận tải là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, do chưa huy động được thêm nguồn kinh phí nên chưa thực hiện giai đoạn tiếp theo được. Bộ GTVT sẽ nghiên cứu đề xuất mở rộng Khu di tích sau khi huy động xã hội hóa các nguồn lực để thực hiện xây dựng các hạng mục trên.
158. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị cần sớm sửa đổi Thông tư số 45/2017/TT-BGTVT quy định một số loại giấy tờ khi làm thủ tục lên máy bay cho phù hợp, đồng thời có hình thức xử lý đối với các cá nhân liên quan do quá trình soạn thảo văn bản không chuẩn mực và đảm bảo quy định.
Trả lời: Tại công văn số 2002/BGTVT-VT ngày 28/02/2018
1. Về ý kiến sửa đổi Thông tư số 45/2017/TT-BGTVT quy định một số loại giấy tờ khi làm thủ tục lên máy bay cho phù hợp:
Bộ GTVT đã ban hành Thông tư số 02/2018/TT-BGTVT ngày 09 tháng 01 năm 2018 quy định ngưng hiệu lực một phần Thông tư số 45/2017/TT-BGTVT (ngưng hiệu lực với quy định về giấy tờ đi tàu bay của Thông tư số 45/2017/TT-BGTVT). Thông tư số 02/2018/TT-BGTVT có hiệu lực từ ngày 15 tháng 01 năm 2018.
Hiện nay giấy tờ sử dụng đi tàu bay thực hiện theo quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-BGTVT ngày 01 tháng 02 năm 2016 quy định chi tiết Chương trình An ninh hàng không và kiểm soát chất lượng an ninh hàng không Việt Nam.
2. Về ý kiến xử lý đối với các cá nhân liên quan do quá trình soạn thảo văn bản không chuẩn mực và đảm bảo quy định:
Ban Cán sự Đảng Bộ GTVT đã họp và ra Nghị quyết chỉ đạo việc nghiêm túc kiểm điểm các tổ chức và cá nhân có liên quan. Các cơ quan, đơn vị liên quan (Vụ Vận tải, Cục Hàng không Việt Nam) đã tổ chức họp kiểm điểm; đồng thời lãnh đạo Bộ GTVT đã chủ trì cuộc họp xem xét việc kiểm điểm của các tổ chức, cá nhân trong việc này.
Hiện tại, Bộ GTVT đang xem xét kiểm điểm của các tổ chức, cá nhân để có hình thức kỷ luật theo quy định của pháp luật.
159. Cử tri tỉnh Bắc Ninh kiến nghị: Cử tri phản ánh, hiện nay khu ruộng khoảng 6,3ha trong vòng xuyến giữa QL3B và QL18 không có khả năng canh tác do ảnh hưởng của công trình xây dựng. Đề nghị Bộ GTVT có giải pháp đối với phần diện tích trên.
Trả lời: Tại công văn số 2161/BGTVT-CQLXD ngày 05/3/2018
Phạm vi phần đất ruộng khoảng 6,3ha trong vòng xuyến nút giao QL3 mới và QL18 nằm ngoài phạm vi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ thi công dự án QL3 mới, Hà Nội – Thái Nguyên, vốn vay JICA. Dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng từ tháng 6/2015 và đang làm các thủ tục quyết toán công trình.
Tại buổi làm việc giữa Bộ trưởng Bộ GTVT với Lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh (Thông báo số 76/TB-BGTVT ngày 03/3/2017), về nội dung địa phương kiến nghị thu hồi phần đất khó canh tác nằm trong vòng xuyến nút giao QL3 mới và QL18, Bộ GTVT đã giao Ban Quản lý dự án 2 chỉ đạo tư vấn lập dự án nghiên cứu khả thi bổ sung hạng mục này vào Dự án BOT cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên và Chợ Mới – Bắc Kạn để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14, trong đó yêu cầu “Đối với các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để đảm bảo quyền lựa chọn cho người dân, không đầu tư các dự án cải tạo nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu” nên kiến nghị của địa phương chưa có điều kiện về kinh phí để thực hiện.
Đề nghị địa phương nghiên cứu có giải pháp chuyển đổi hình thức canh tác hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đối với diện tích đất nêu trên.
160. Cử tri tỉnh Bắc Ninh kiến nghị: Cử tri phản ánh về việc đề nghị xem xét bồi thường, hỗ trợ thiệt hại về sản xuất nông nghiệp, một số diện tích trồng lúa không trổ bông, do ảnh hưởng đèn chiếu sáng khu vực cầu Xuân Tảo – Quốc lộ 3B (Km20+325,5).
Trả lời: Tại công văn số 1939/BGTVT-KCHT ngày 27/02/2018
161. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Theo quy định hiện hành thì đường Hồ Chí Minh qua huyện Chơn Thành có mốc lộ giới là 17m tính từ tim đường, mốc lộ giới này được tính cả vào phần diện tích nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các hộ dân hai bên đường và chưa được nhà nước đền bù. Điều này làm ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến quyền sử dụng đất của các hộ dân, vì không thể xây dựng hoặc cơ nới trên phần diện tích đất tính làm mốc lộ giới theo quy hoạch. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét lại quy định về mốc lộ giới trên tuyến đường Hồ Chí Minh cho phù hợp để đảm bảo quyền lợi của các hộ dân.
Trả lời: Tại công văn số 2619/BGTVT-KCHT ngày 15/3/2018
1. Quy định hiện hành của pháp luật về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo Nghị định số 11/2010/NĐ-CP và Nghị định số 100/2013/NĐ-CP của Chính phủ bổ sung, sửa đổi một số điều Nghị định số 11/2010/NĐ-CP quy định như sau:
“Đối với đường bộ xây dựng mới hoặc nâng cấp, cải tạo, chủ đầu tư phải xác định giới hạn đất dành cho đường bộ và thực hiện như sau:
- Đối với đất của đường bộ, lập thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất, thực hiện bồi thường theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Đối với đất hành lang an toàn đường bộ: Chủ đầu tư tiến hành cắm mốc giới hạn để bàn giao cho địa phương và cơ quan quản lý đường bộ quản lý theo quy định như đối với hành lang đường bộ đang khai thác. Trường hợp công trình và các tài sản khác nằm trong hành lang an toàn đường bộ ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn giao thông, an toàn công trình đường bộ thì chủ đầu tư tiến hành xác định mức độ ảnh hưởng, phối hợp cùng cơ quan quản lý đất đai của địa phương lập thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền bồi thường, hỗ trợ thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.”
2. Dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Ngọc Hồi - Chơn Thành và Chơn Thành – Đức Hòa đi qua huyện Chơn Thành được Thủ trướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chi tiết đường Hồ Chí Minh tại Quyết định số 194/QĐ-TTg ngày 15/02/2012 và Nghị quyết số 66/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc hội. Theo đó, quy mô xây dựng là đường cao tốc và thời gian xây dựng sau 2020: đoạn Ngọc Hồi - Chơn Thành (4-6 làn xe), đoạn Chơn Thành – Đức Hòa (4 làn xe). Thực hiện quy hoạch chi tiết đường Hồ Chí Minh, ngày 22/9/2014, Bộ GTVT có Công văn 1874/BGTVT-KHĐT giao Ban QLDA đường Hồ Chí Minh triển khai cắm tim tuyến và xác định sơ bộ phạm vi hành lang đường bộ; đến nay, Ban QLDA đường Hồ Chí Minh đã hoàn thành công tác cắm mốc tim tuyến và xác định sơ bộ phạm vi hành lang an toàn đường Hồ Chí Minh, đồng thời đã bàn giao cho địa phương quản lý.
3. Việc cắm mốc tim đường và xác định phạm vi hành lang đường bộ dự kiến của tuyến đường theo quy hoạch dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh được thực hiện theo Quyết định số 194/QĐ-TTg ngày 15/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chi tiết đường Hồ Chí Minh và Nghị quyết số 66/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc hội; đồng thời phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo Nghị định số 11/2010/NĐ-CP và Nghị định số 100/2013/NĐ-CP của Chính phủ bổ sung, sửa đổi một số điều Nghị định số 11/2010/NĐ-CP.
4. Hành lang bảo vệ đường Hồ Chí Minh với mục đích để đảm bảo ATGT và bảo vệ công trình đường bộ; vì vậy các tổ chức, cá nhân không được phép xây dựng nhà cửa, lều quán, công trình tạm thời hay vĩnh cửu, chỉ được sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Nhà ở của dân cư đã có trong HLATĐB nếu không ảnh hưởng nhiều đến ATGT thì được phép tạm thời để lại sử dụng; khi hư hỏng, xuống cấp thì được phép sửa chữa nhưng không được cơi nới, mở rộng, nâng cấp nhằm để đảm bảo ATGT, để tránh thiệt hại về sau cho dân cư khi Nhà nước xây dựng đường Hồ Chí Minh. Khi triển khai xây dựng đường Hồ Chí Minh theo quy hoạch thì đất đai, tài sản của các tổ chức, cá nhân nếu thuộc đối tượng được đền bù theo luật định thì sẽ được Nhà nước đền bù, nếu thuộc đối tượng được hỗ trợ sẽ được Nhà nước hỗ trợ.
5. Để bồi thường, hỗ trợ thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 994/QĐ-TTg ngày 19/6/2014 về việc Phê duyệt Kế hoạch lập lại trật tự hành lang an toàn đường bộ, đường sắt giai đoạn 2014 - 2020; trong đó yêu cầu, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước ngày 31 tháng 5 hàng năm báo cáo kế hoạch bồi thường, hỗ trợ của năm sau về Bộ Giao thông vận tải (qua Tổng cục Đường bộ Việt Nam) để báo cáo Chính phủ bố trí vốn giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất đối với những hộ dân nằm trong hành lang an toàn đường bộ có nhu cầu xây dựng mới nhà ở; thời gian thực hiện đến hết năm 2017.
6. Về việc xem xét lại quy định về mốc lộ giới trên tuyến đường Hồ Chí Minh cho phù hợp để đảm bảo quyền lợi của các hộ dân. Như nội dung đã nêu trên, hành lang an toàn đường Hồ Chí Minh đoạn qua huyện Chơn Thành đã được cắm mốc tim đường và xách định sơ bộ hành lang an toàn đường bộ đúng theo quy hoạch chi tiết đường Hồ Chí Minh, đúng quy định của pháp luật về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phù hợp với yêu cầu đảm bảo ATGT và bảo vệ công trình đường bộ của cấp đường quy hoạch là đường cao tốc có 4-6 làn xe, tốc độ thiết kế 100km/h; vì vậy ngành GTVT không xem xét, xác định lại mốc lộ giới đường bộ đã cắm ở đoạn tuyến đường này.
162. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử chi cho rằng thời gian qua, ngành GTVT đã triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Các dự án đưa vào khai thác đã phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích trên nhiều phương diện và tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cử chi tiếp tục kiến nghị Bộ GTVT xem xét lại các điểm đặt trạm BOT trên toàn quốc (trong đó có trạm BOT ở huyện Tây Sơn, thị xã An Nhơn) vì điểm đặt chưa hợp lý về khoảng cách theo quy định; giảm mức phí, đồng thời có chính sách miễn, giảm phí qua trạm BOT của các địa phương liền kề hằng ngày phải đi qua trạm thu phí, góp phần giảm chi phí vận tải.
Trả lời: Tại công văn số 1998/BGTVT-ĐTCT ngày 28/02/2018
Theo quy định tại các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính về khoảng cách giữa các trạm thu phí BOT như sau: (1) Đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu giá, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định. Như vậy, pháp luật không quy định về khoảng cách tối thiểu bắt buộc phải đảm bảo giữa các trạm thu phí (nội dung này cũng đã được Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ văn tại văn bản số 1157/BTC-CST ngày 20/10/2017).
Đối với các trạm thu giá trên địa bàn tỉnh Bình Định: Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Định bố trí 03 trạm thu giá, gồm 02 trạm trên Quốc lộ 1 tại Km1148+1300 và trạm Km1212+550, 01 trạm trên Quốc lộ 19 tại Km49+055. Trong quá trình xây dựng các trạm thu giá nêu trên, Bộ GTVT đã thực hiện đúng quy định (cả 03 vị trí trạm trên đều có ý kiến đồng thuận của UBND tỉnh Bình Định và Bộ Tài chính về vị trí đặt trạm).
Để rà soát, khắc phục các tồn tại của các dự án BOT, trong đó có nội dung rà soát vị trí và mức giá tại tác trạm BOT, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều Nghị quyết và văn bản (Nghị Quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2017 số 84/NQ-CP ngày 06/9/2017, Nghị Quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 1/2018 số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 và văn bản chỉ đạo số 13856/VPCP-CN ngày 28/12/2017 của Văn phòng Chính phủ), chỉ đạo Bộ GTVT chủ trì rà soát, đánh giá quá trình triển khai, thực hiện, vận hành khai thác các dự án BOT, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế để tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức Hợp đồng BOT.
Hiện nay, Bộ GTVT đang nghiêm túc thực hiện các chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tại các Nghị quyết và văn bản nêu trên.
2. Về việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam chủ trì, phối hợp với các địa phương, các Nhà đầu tư đề xuất phương án xử lý các bất cập tại các trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ.Đến nay, Bộ GTVT đã miễn, giảm giá cho các phương tiện khu vực lân cận trạm thu giá tại 52 dự án/58 dự án đã khai thác. Đối với các trạm còn lại, Bộ GTVT chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các Nhà đầu tư khẩn trương rà soát, điều chỉnh giảm giá.
Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với Bộ Tài chính báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phương án giảm giá đối với xe loại 4 (xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit) từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 (xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit) từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng. Đến nay, Bộ GTVT đã đàm phán với các Nhà đầu tư để giảm giá của 35 dự án, 27 dự án có mức giá đã thấp hơn mức trung bình, 11 dự án chưa giảm giá do lưu lượng xe thấp hơn dự kiến nếu giảm giá thì phương án tài chính không khả thi, do vậy Nhà đầu tư và ngân hàng cung cấp tín dụng chưa đồng ý giảm giá.
Đối với các trạm trên địa bàn tỉnh Bình Định: Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, Bộ GTVT và các Nhà đầu tư BOT đã giảm giá đối với xe loại 4 (xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit) từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 (xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit) từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng tại 02 trạm thu giá trên địa bàn tỉnh Bình Định. Trên cơ sở số liệu chi phí đầu tư thực tế sau thanh tra, kiểm toán, đề xuất của UBND tỉnh Bình Định, Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các Nhà đầu tư, Bộ GTVT đã miễn giảm giá đối với các phương tiện qua 03 trạm này như sau: (1) Giảm giá cho các phương tiện quanh 03 trạm thu giá (giảm giá 50% cho các phương tiện loại 1 (không kinh doanh) có đăng ký tại một số xã, huyện quanh 02 trạm thu giá); (2) đã giảm giá chung cho các phương tiện qua trạm thu giá Km1212+550 (mỗi loại xe giảm 5.000 đồng/lượt). Mức giá và thời gian thu giá thường xuyên được cập nhật, kiểm soát trên cơ sở lưu lượng xe thực tế.