MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNGNGHỆ THUẬTI Khái niệm nghệ thuật: Là đối tượng nghiên cứu trung tâm, đối tượng khám phá quan trọng nhất của Mỹ học.Trong thực tế, khái niệm mỹ thuật được dùng với nhiều nghĩa: Nghệ thuật đồng nghĩa với một tài nghệ nào của con người.Nghệ thuật dùng để chỉ hoạt động sáng tạo theo nguyên tắc của cái đẹp.Trong mỹ học và lí luận văn học, từ nghệ thuật được dùng để chỉ một hành động sáng tạo mang tính đặc thù với mục đích sáng tạo ra những cái đẹp lảm thỏa mãn nhu cầu thẫm mĩ cho con người mang ý nghĩa sâu sắc. Nghệ thuật là lỉnh vực sáng tạo đa dạng gồm nhiều loại hình:hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, múa, văn học, âm nhạc…II Đối tượng nghệ thuậtMỹ học hegel coi đối tượng của nghệ thuật là cái đẹp.Đại diện cho những tư tưởng của mỹ học duy vật trước Marx, Tserushevski kịch liệt phản đối quan niệm trên, ông khẳng định rằng “lĩnh vực cua nghệ thuật không chỉ hạn chế trong cái đẹp và trong những cái gọi là nhân tố của nó”… và cho rằng “tất cả mọi cái hứng thú trong cuộc sống – đó là nội dung của nghệ thuật”.Có thể khái quát lại rằng: “đối tượng của nghệ thuật là toàn bộ thế giới hiện thực có ý nghĩa với sự sống của con người mang tư tưởng tình cảm khác vọng của con người”III Phương thức phản ánh của nghệ thuậtNghệ thuật,khoa học và các hình thái xã hội khác đều là những phương tiện để nhận thức, khám phá về đồi sống.Nhưng nhờ có phương thức biểu hiện đối tượng,nội dung của chúng và ta có thể phân biệt nghệ thuật với các hình thái ý thức khác: khoa học sử dụng khái niệm, còn nghệ thuật dùng hình tượng.Hình tượng và phương thức phản ánh đặc thù của nghệ thuật. Tính hình tượng được xem là đặc trưng chung, chủ yếu của tất cả loại hình nghệ thuật. Khái niệm hình tượng nghệ thuật:Hình tượng nghệ thuật có nguồn góc từ một loại tư duy đặc biệt: tư duy hình tượng – cảm tình. Hình tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù của nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống cách sáng tạo bằng những hình thức sinh động,cảm tính cụ thể như bản thân đời sống;thông qua đó nhằm lí giải, khái quát về đời sống gắn liền với một ý nghĩa tư tưởng,cảm xúc nhất định, xuất phát từ lý tưởng thẩm mỹ của nghệ sĩ.Trong mỹ học,thông thường thuật ngữ “ hình tượng” được dùng với hai nghĩa :Nghĩa rộng: chỉ đặt điểm chung về phương thức phản ánh đời sống của tất cả các loại hình nghệ thuật để phân biệt nghệ thuật với khoa học và các hình thái ý thức xã hội khác.Nghĩa hẹp (phạm vi tác phẩm): dùng để chỉ các nhân vật trong tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật được biểu hiện qua nhiều cấp độ khác nhau: + cấp độ vật chất. + cấp độ tâm lý. + cấp độ tư tưởng. . Cấp độ cao nhất của hình tượng. . Không biểu hiện ở những hình tượng cụ thể, đơn lẽ mà chỉ bộc lộ trong hệ thống hình tượng mang tính chỉnh thể: toàn bộ tác phẩm.2. Đặc trưng của hình tượng nghệ thuật: Đặc trưng tiêu biểu nhất là: sự thống nhất của cái cụ thể, cá biệt, cảm tính với cái khái quát. Thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. + Khách quan: hiện thực cuộc sống. + Chủ quan: người nghệ sĩ tái hiện lại hiện thực cuộc sống.Hai yếu tố trên hòa thắm vào nhau không thể tách rời để làm nên hình tượng nghệ thuật.Thế giới chủ quan của nghệ sĩ chỉ thực sự có giá trị khi nó được bộc lộ qua cách nhìn nhận và đánh giá trên cơ sở sự phản ánh hiện thựcThống nhất giữa lí trí và tình cảmSự thống nhất hài hòa giữa lí trí và tình cảm sẽ tạo nên sức thuyết phục của hình tượng nghệ thuật.Thiên về lí trí thì sẽ làm hạn chế sức hấp dẫn, truyền cảm của hình tượng. Còn nếu quá nghiêng về cảm xúc thì hình tượng sẽ trở nên ủy mỵ, thiếu sức sống.Mang tính ước lệ: nhờ ước lệ mà nghệ thuật phản ánh cuộc sống chân thật hơn; hình tượng nghệ thuật trở nên hàm súc và giàu sức truyền đạt.Tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật.Là đặc điểm tiêu biểu cho hình tượng khác với khái niệm khoa họcLà nền tảng cho sự trường tồn của nghệ thuật.IV Nội dung và hình thức trong nghệ thuậtNội dung của nghệ thuậtNội dung của nghệ thuật tồn tại trong tác phẩm, có cơ sở khách quan là đối tượng mà tác phẩm hướng tới.Sự đánh giá cuộc sống mang tính tư tưởng_đó là cấp độ biểu hiện cao nhất của nội dung tác phẩm_cấp độ quan niệm nghệ thuật (ý nghĩa tư tưởng tác phẩm). Ý nghĩa này bộc lộ ở cấp độ chỉnh thể tác phẩm.Các phương diện của nội dung tác phẩm từ đề tài, chủ đề đến ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm không tồn tại độc lập mà hòa thấm vào nhau trong 1 chỉnh thể thống nhất hữu cơ làm nên nội dung tư tưởng của tác phẩm.Tóm lại: “nội dung đích thực của tác phẩm nghệ thuật là hiện thực cuộc sống được tái hiện, lí giải và đánh giá bằng hình tượng nghệ thuật dưới ánh sáng của 1 thế giới quan, 1 lí tưởng xã hội_thẩm mỹ nhất định nghệ sỹ”. Hình thức nghệ thuật của tác phẩmLà 1 chỉnh thể thẩm mỹ tồn tại sinh động, cụ thể, không lập lại, trong đó bao gồm nhiều yếu tố phụ thuộc và quy định lẫn nhau nhằm mục đích bộc lộ nội dung cụ thể, xác định.Bao gồm:Hình thức bên ngoài: mang tính vật chất.Ví dụ: quyển sách, bức tranh…Hình thức bên trong: là 1 tổ chức cơ cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố phụ thuộc, chi phối lẫn nhau và phụ thuộc vào nội dung tác phẩm.Ví dụ: kết cấu, bố cục, phương tiện thể hiện, thể loại, những biện pháp mô tả mang tính đặc thù của mỗi loại hình nghệ thuật.Quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuậtLà quan hệ thống nhất biện chứng trong đó chúng xuyên thấm và chuyển hòa lẩn nhau.Hình thức là sự biểu hiện của nội dung. Ngoài chức năng bộc lộ nội dung, hình thức không có một lí do tồn tại nào khác. Ngược lại, 1 nội dung cũng chỉ bộc lộ được thông qua 1 hình thức cụ thể, duy nhất, không lặp lại. Không có nội dung nào mà không có hình thức tồn tại riêng của nó.Hình thức chịu sự quy định, chi phối của nội dung nhưng vẫn mang tính độc lập tương đối so với nội dung.Nhờ được biểu hiện qua hình thức mà nội dung tồn tại khách quan, bền vững; đến được với người đọc, người nghe và trở thành tài sản tinh thần chung của xã hội.Nhóm thuyết trình xin chân thành cảm ơn Thầy và các bạn đã lắng nghe phần thuyết trình của nhóm PL 1152 A2THE END
Đi nghĩa vụ quân sự làm những gì và chế độ như thế nào?
Mặc dù thời gian trong quân ngũ kéo dài 24 tháng có thể lấy đi thời gian và một số cơ hội để phát triển bản thân trong độ tuổi thanh xuân xanh nhưng nhiều thanh niên trong đó có cả những người vừa tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, thậm chí cả nữ giới xung phong nhập ngũ.
Khi tham gia nghĩa vụ quân sự, quyền lợi được quy định cụ thể tại Luật Nghĩa vụ quân sự 2015, Nghị định 204/2004/NĐ-CP, Nghị định 27/2016/NĐ-CP.
Theo đó, trong thời gian tại ngũ:
– Hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ từ tháng thứ 13 trở đi nghỉ phép hàng năm; thời gian nghỉ là 10 ngày (không kể ngày đi và về).
– Hạ sĩ quan, binh sĩ đã nghỉ phép năm theo chế độ, nếu gia đình gặp thiên tai, hỏa hoạn nặng hoặc người thân từ trần, mất tích hoặc hạ sĩ quan, binh sĩ lập được thành tích đặc biệt xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ thì được nghỉ phép đặc biệt, thời gian không quá 05 ngày (không kể ngày đi và về).
– Được thanh toán tiền tàu, xe, tiền phụ cấp đi đường theo quy định hiện hành.
* Không mất phí chuyển bưu phẩm, tiền:Miễn tiền cước khi chuyển tiền, bưu phẩm, bưu kiện; được cấp 04 tem thư/tháng.
* Khi tham gia tuyển sinh được cộng điểm ưu tiên.
* Trước khi nhập ngũ là thành viên hộ nghèo, học sinh, sinh viên nếu vay tiền từ Ngân hàng Chính sách xã hội thì được tạm hoãn trả và không tính lãi suất trong thời gian tại ngũ.
Chế độ với thân nhân của những người đang phục vụ tại ngũ được quy định tại Điều 6 Nghị định 27/2016:
Phụ cấp quân hàm hiện được thực hiện theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP. Cụ thể, được tính theo hệ số nhân với mức lương cơ sở. Hiện nay, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng. Do đó, mức phụ cấp cụ thể như sau:
– Binh nhì có hệ số phụ cấp là 0,4 => hưởng mức phụ cấp 596.000 đồng/tháng
– Binh nhất có hệ số phụ cấp là 0,45 => hưởng mức phụ cấp 670.500 đồng/tháng
– Hạ sĩ có hệ số phụ cấp là 0,5 => hưởng mức phụ cấp 745.000 đồng/tháng
– Trung sĩ có hệ số phụ cấp là 0,6 => hưởng mức phụ cấp 894.000 đồng/tháng
– Thượng sĩ có hệ số phụ cấp là 0,7 => hưởng mức phụ cấp 1.043.000 đồng/tháng.
Chế độ khi người tham gia nghĩa vụ quân sự xuất ngũ:
– Trợ cấp xuất ngũ một lần: Cứ mỗi năm phục vụ trong Quân đội, hạ sĩ quan, binh sĩ khi xuất ngũ được trợ cấp bằng 02 tháng tiền lương cơ sở tại thời điểm xuất ngũ.
Phục vụ tại ngũ từ tháng thứ 25 đến dưới 30 tháng được trợ cấp thêm 01 tháng phụ cấp quân hàm hiện hưởng; Phục vụ tại ngũ đủ 30 tháng được trợ cấp thêm 02 tháng phụ cấp quân hàm hiện hưởng.
– Trợ cấp tạo việc làm: Mức trợ cấp bằng 06 tháng tiền lương cơ sở tại thời điểm xuất ngũ.
– Khi xuất ngũ, được đơn vị tiễn và đưa về địa phương nơi cư trú hoặc được cấp tiền tàu, xe và phụ cấp đi đường.
Được hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm
Hạ sĩ quan, binh sĩ trước khi nhập ngũ đang học tập hoặc có giấy gọi vào học tại các trường thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học thì được bảo lưu kết quả, được tiếp nhận vào học tại các trường đó.
Trường hợp hạ sĩ quan, binh sĩ hoàn thành nghĩa vụ phục vụ tại ngũ, khi xuất ngũ nếu có nhu cầu đào tạo nghề và đủ điều kiện được hỗ trợ đào tạo nghề thì được hỗ trợ đào tạo nghề theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm.
Hạ sĩ quan, binh sĩ trước khi nhập ngũ đang làm việc tại cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội thì khi xuất ngũ cơ quan, tổ chức đó phải có trách nhiệm tiếp nhận lại, bố trí việc làm và bảo đảm thu nhập không thấp hơn trước khi nhập ngũ; trường hợp cơ quan, tổ chức đó đã giải thể thì cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có trách nhiệm bố trí việc làm phù hợp.
Hạ sĩ quan, binh sĩ trước khi nhập ngũ đang làm việc tại tổ chức kinh tế thì khi xuất ngũ tổ chức đó phải có trách nhiệm tiếp nhận lại, bố trí việc làm và bảo đảm tiền lương, tiền công tương xứng với vị trí việc làm và tiền lương, tiền công trước khi nhập ngũ; trường hợp tổ chức kinh tế đã chấm dứt hoạt động, giải thể hoặc phá sản thì việc giải quyết chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ được thực hiện như đối với người lao động của tổ chức kinh tế đó theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành; cơ quan Bảo hiểm xã hội địa phương nơi tổ chức kinh tế nói trên đóng bảo hiểm xã hội chịu trách nhiệm thanh toán chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành.
Hạ sĩ quan, binh sĩ được tiếp nhận vào làm việc tại các cơ quan nhà nước, tổ chức, các cơ sở kinh tế thuộc các thành phần kinh tế được xếp lương theo công việc đảm nhiệm, thời gian phục vụ tại ngũ được tính vào thời gian công tác và được hưởng chế độ, chính sách theo quy định hiện hành đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của cơ sở kinh tế đó.
Khi về địa phương được chính quyền các cấp, cơ quan, tổ chức ưu tiên sắp xếp việc làm và cộng Điểm trong tuyển sinh, tuyển dụng công chức, viên chức; trong thời gian tập sự được hưởng 100% mức lương và phụ cấp của ngạch tuyển dụng tương ứng với trình độ đào tạo (không áp dụng với trường hợp xuất ngũ trước thời hạn)
Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng, cao quý nhất, lên đường làm nghĩa vụ quân sự không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà cao hơn cả đó còn là niềm tự hào của mỗi thanh niên Việt Nam để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, tự tin hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tin rằng, các thế hệ thanh niên Việt Nam khi tham gia nghĩa vụ quân sự sẽ tiếp tục đem sức trẻ của mình ra sức rèn luyện, tu dưỡng, học tập, công tác, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, tiếp nối truyền thống của các thế hệ cha anh đi trước và xứng đáng với niềm tin của Đảng và Nhân dân dành cho các thế hệ thanh niên Việt Nam.
NGHỆ-THUẬT-ĐƯƠNG-ĐẠI “CONTEMPORARY ART” LÀ GÌ VÀ CHÚNG TA CÓ THỂ ĐỊNH NGHĨA RÕ NGAY BÂY GIỜ?
Nghệ-thuật-đương-đại, trong mọi trường hợp, được định nghĩa là “Tác phẩm nghệ thuật đã, đang và tiếp tục được tạo nên trong suốt cuộc đời của chúng chúng ta”. Nghe khá đơn giản, phải không? Vâng, nhưng có một vấn đề xảy ra, liệu chúng ta có thể giải thích được rằng không tồn tại một định nghĩa nghệ thuật nào khác, không thể loại nghệ thuật nào có thể gây ra sự nhầm lẫn, và không tồn tại cùng thời gian với Nghệ-thuật-đương-đại? Điều quan trọng nhất là ngay từ lúc chúng ta gọi tên, Đương Đại, nó cho bạn khái niệm đầy đủ mà không cần phải hỏi lại. Nhầm lẫn khái niệm là việc không được xảy ra, bởi vì khi đó có thể bạn sẽ không nhìn nhận đúng những điều đang xảy ra. Vâng, tôi không ngại hỏi, Nghệ-thuật-đương-đại là gì và làm thế nào chúng ta có thể định nghĩa rõ ngay bây giờ?
Trong ngôn ngữ chúng ta, "Hiện Đại - Modern" và "Đương Đại - Contemporary" là từ đồng nghĩa. Không may, trong thế giới nghệ thuật, hai thuật ngữ này định nghĩa hai thời điểm tạo nên tác phẩm khác nhau, hai cách tiếp cận để sáng tác khác nhau, nhiệm vụ của chúng khác nhau, và nhiều điều khác biệt nữa hơn là sự nhầm lẫn về mặt ngôn ngữ. Để hiểu về loại hình Nghệ-thuật-đương-đại, đầu tiên chúng ta cần hiểu sự khác biệt giữa hai cách gọi Hiện-đại và Đương-đại trong nghệ thuật.
Nghệ-thuật-hiện-đại thường được biết đến với những tác phẩm được thực hiện trong hai giai đoạn, một là những năm 1860 và hai là trong những năm 1970. Các tác phẩm nghệ thuật thực hiện trong những giai đoạn này đều thử nghiệm cách biểu hiện mới nhằm vượt khỏi những giá trị truyền thống. Thử nghiệm những chất liệu tạo hình khác nhau và cách tiếp cận nghệ thuật mới, với việc đưa nghệ thuật ra khỏi sự miêu tả thông thường của nghệ thuật truyền thống, hướng tới tư duy trừu tượng. Cách biểu đạt tự do và mang tính cách mạng của những tư tưởng đến từ bên trong người nghệ sĩ, cách biểu hiện với tầm nhìn như vậy đã đánh dấu sự ảnh hưởng vĩ đại của Nghệ-thuật-hiện-đại. Điều này không chỉ đem lại những khái niệm trừu tượng mà còn ảnh hưởng đến sự tiếp cận thế giới thực, những vấn đề xã hội và mô tả thế giới hiện đại.
Đối với nhiều người thời điểm kết thúc của Nghệ-thuật-hiện-đại được xác định trong những năm 1970 với sự ra đời của thời kỳ Hậu-hiện-đại. Đến cuối thế kỷ 20, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, chúng ta thấy sự lớn mạnh của những loại hình Video-Art và Nghệ-thuật-trình-diễn, với sự thử nghiệm, ứng dựng lấy từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Đồng thời, chúng ta cũng thấy sự phát triển của những thuyết, triết lý nghiên cứu về thời kỳ Hậu-hiện-đại với sự thống trị của hiện tại, nơi sự tập trung hướng vào những điều mà chúng ta đã có, và nó đòi hỏi sự nhận biết phải biểu đạt những xu hướng mới nhất. Bây giờ, là thời điểm tất cả mọi điều bắt đầu để xây dựng, định hình sự chiết trung và đa dạng của Nghệ-thuật-đương-đại.
Sự ảnh hưởng từ những ý tưởng hậu hiện đại là tất cả mọi điều đều bị tách rời nhưng đồng thời mỗi thực thể đều có ý nghĩa phù hợp theo cách riêng của mình, hoài nghi về mọi định nghĩa, tạo nên tinh thần chi phối từ bên trong của Nghệ-thuật-đương-đại. Cùng sự đa dạng và thách thức tự nhiên, Nghệ-thuật-đương-đại tạo nên những tác phẩm với sự kết hợp đa dạng của vật liệu, phương pháp, khái niệm với những tư tưởng chống lại truyền thống và thách thức những định nghĩa dễ dãi. Nghệ sĩ khám phá những ý tưởng, khái niệm, câu hỏi, thực hành trong quá khứ với mục đích để hiểu hiện tại và hình dung tương lai. Đó là bởi sự đa dạng trong các phương pháp tiếp cận, Nghệ-thuật-đương-đại thường được xem như thiếu một sự thống nhất trong nguyên lý biểu đạt, tư tưởng hay sự định hình và rõ ràng công chúng luôn được tự hỏi rằng điều này đang thiếu một phần nào đó.
ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHỆ-THUẬT-ĐƯƠNG-ĐẠI LÀ GÌ?
Trước đây chúng ta cho rằng người nghệ sĩ là cá nhân duy nhất tạo nên tác phẩm. Với sự phát triển của Nghệ-thuật-đương-đại, khán giả đã trở thành một phần không thể thiếu trong việc đem tới ý nghĩa và tạo nên sự biểu đạt của tác phẩm. Quá trình này trở nên quan trọng và sự đa dạng của các cách tiếp cận giúp hình thành nên những thể loại khác nhau trong cùng một loại hình nghệ thuật. Điều này thoát ra khỏi những định nghĩa chi phối và chỉ tăng cường tinh thần hậu hiện đại. So với một trong những phong trào chịu chi phối và ảnh hưởng của Nghệ-thuật-hiện-đại, trường phái Ấn-tượng-trừu-tượng (Abstract Expressionism), Nghệ-thuật-đương-đại dường như thiếu sự chia sẻ ý tưởng và cách biểu hiện, từ khi Nghệ-thuật-đương-đại hình thành là ngần đấy thời gian của những câu hỏi liên tiếp, tái đánh giá và thử nghiệm nghệ thuật. Sự thử nghiệm này được thực hiện mà không nhằm tạo nên những điều thiêng liêng, cao cả. Tất cả mọi thứ đều được sử dụng và tất cả mọi điều đều có thể trở thành nghệ thuật. Do những điều như vậy, các đối tượng của các tác phẩm đương đại, theo đuổi từng xu hướng trong mỗi thời điểm, tạo ra xu hướng trong mỗi thời điểm và luôn luôn phát triển để mở rộng ý tưởng về những gì được coi là nghệ thuật mới. Đối tượng của tác phẩm là, thường xuyên phản ánh những vấn đề nóng bỏng của xã hội hiện đại với mục đích tái định nghĩa thế giới và các giá trị đã được chấp nhận.
Bây giờ chúng ta làm gì? Nếu thể loại nghệ thuật này cho chúng ta cảm giác rằng nó không có một định nghĩa cụ thể, sự đa dạng trong những tiếp cận tác phẩm là vô hạn, vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu được sự khác biệt giữa Nghệ-thuật-đương-đại và Nghệ-thuật-hiện-đại? Những gì được cho là một trong những điểm khác biệt lớn nhất giữa hai loại này là: Nghệ-thuật-hiện-đại tham chiếu quá khứ, từ đó tạo nên tác phẩm và cố gắng để hiểu được thời điểm hiện tại. Nghệ-thuật-đương-đại cũng nhằm mục đích hiểu hiện tại, nhưng hiện tại lại bị tách rời và biến đổi. Trong bối cảnh này, tác phẩm chỉ có thể nói đến sự bao la trong đa dạng và vì tác phẩm đòi hỏi khán giả sự nhận thức về thế giới xung quanh cùng những câu hỏi thoảng qua. Chúng đang có và chúng ảnh hưởng như thế nào khi chúng ta chiêm ngưỡng và tự liên hệ với thế giới, nhưng trong những phút tiếp theo đó, một điều mới sẽ đến và thay đổi cái nhìn của chúng ta.