Có nhiều chỉ số khác nhau được dùng để đánh giá sự giàu có của một quốc gia, vùng lãnh thổ, nhưng thường bao gồm tổng sản phẩm trong nước (GDP), GDP bình quân đầu người hoặc tổng thu nhập quốc dân (GNI)...trong đó chỉ số được sử dụng phổ biến nhất là GDP bình quân đầu người, là thước đo tổng giá trị do một nền kinh tế tạo ra trong một năm nhất định chia cho số người sống trong đó.
Những hạn chế của GDP bình quân đầu người
GDP bình quân đầu người là một trong những thước đo sự thịnh vượng chung, nhưng nó cũng có những hạn chế riêng.
Đầu tiên, đây là thước đo sản lượng kinh tế mỗi người, không phải thu nhập cá nhân hay tiết kiệm hộ gia đình nên có những hạn chế rõ ràng trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn như ở Ireland, nơi sự hiện diện của các tập đoàn đa quốc gia làm xáo trộn sản lượng chung của mỗi người.
Thứ hai, các quốc gia có dân số nhỏ hơn sẽ có thứ hạng tốt hơn. Hầu hết nền kinh tế lớn nhất thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ, Anh, Pháp) không lọt vào top 10. Những thước đo khác về mức sống tốt, một số trong đó là vô hình về mặt kinh tế – nhân quyền, tự do ngôn luận – hoàn toàn không được tính đến.
Cuối cùng, một trong những hạn chế lớn của việc sử dụng GDP bình quân đầu người là không tính đến sức mạnh của đồng nội tệ. Hàng hóa phi thương mại ở một quốc gia (dịch vụ, phương tiện giao thông địa phương, trường học, v.v.) không được định giá khi sử dụng chuyển đổi tỷ giá hối đoái. GDP Per Capita cũng không tính đến sự khác biệt về giá giữa các quốc gia - ví dụ, rau tươi ở Ấn Độ rẻ hơn nhiều so với ở Canada.
Để giải quyết vấn đề này, các nhà kinh tế sử dụng chỉ số ngang giá sức mua (PPP) và chuyển đổi thành một loại tiền tệ chung để thể hiện sự thịnh vượng tương đối cho nền kinh tế tương. GDP Per Capita được điều chỉnh theo lạm phát và sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các quốc gia.
Nhìn chung, GDP bình quân đầu người đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định sự tăng trưởng và thịnh vượng nội bộ của đất nước. GDP Per Capita cũng giúp so sánh một quốc gia với các quốc gia khác trên toàn cầu. Theo số liệu cụ thể này, các chính phủ có thể xem xét phân bổ nguồn lực để phát triển hoặc kiểm soát kinh tế hoặc dân số.
Hy vọng bài viết này của Vietcap đã giúp mọi người hiểu hơn về chỉ số kinh tế GDP bình quân đầu người (GDP Per Capita). Xem nhiều hơn tại Vietcap Academy. Chúc các nhà đầu tư thành công!
“GDP bình quân đầu người 95,6 triệu một năm, lương bình quân của người lao động 8,5 triệu một tháng, 102 triệu đồng năm, sao cao vậy, tôi chẳng tin, bởi vì xung quanh tôi đa số mọi người đều thấp hơn con số ấy”. Đấy là suy nghĩ của rất nhiều người sau khi nghe Tổng cục Thống kê công bố về số liệu GDP và GDP đầu người của Việt Nam năm 2022.
Với tư duy lấy thu nhập, mức lương của đa số tầng lớp lao động trong xã hội so với GDP đầu người rồi không tin con số GDP đầu người công bố thì chẳng có quốc gia nào trên thế giới theo nền kinh tế thị trường đáng tin cả.
Chúng ta hãy xem các số liệu năm 2022 của nước Mỹ, cường quốc số 1 thế giới (mức lương trung bình lấy theo số liệu của Cục Thống kê Lao động Mỹ BLS, GDP đầu người theo IMF):
1) GDP bình quân đầu người là 75.197$, mức lương trung bình là 53.490$.
2) Tất cả các vị trí nghề trong các ngành kinh tế sau có lương trung bình thấp hơn GDP đầu người: Nông nghiệp (2/2), nghệ thuật (5/5), dịch vụ (18/18), dịch vụ khách hàng (5/5), bán lẻ (6/6), bất động sản (7/7), du lịch - khách sạn - nhà hàng (17/17), skilled trades (7/7), Social Care (3/3).
3) Các ngành sau có trên 74% vị trí nghề có mức lương trung bình thấp hơn GDP đầu người: Giáo dục và đào tạo (18/21), khoa học (23/31), sản xuất (14/15), thiết kế - kiến trúc (19/22), xây dựng (13/17), cơ khí (6/8), an ninh - an toàn (12/14), truyền thông & xuất bản (6/7), kế toán (12/13), hành chính (22/31), luật (23/31), vận tải - logistic (15/20)
4) Các ngành có mức lương trung bình cao nhất nước Mỹ (trên 50% nghề có mức lương trung bình cao hơn GDP đầu người): Dược (10/13, mức lương trung bình cao nhất là Giám đốc nhà thuốc 163.800$), y tế (64/128, mức lương trung bình cao nhất là bác sĩ giải phẫu thần kinh 428.300$), kỹ sư (19/32, mức lương trung bình cao nhất là kỹ sư Cloud 129.460$), IT (29/56, mức lương trung bình cao nhất là kiến trúc sư big data 145.600$).
5) Những nghề sau có mức lương trung bình cao nhất nước Mỹ (trên 340.000$ năm) theo thứ tự là các Bác sĩ: Phẫu thuật thần kinh, phẫu thuật tim mạch, phẫu thuật chỉnh hình, chuyên khoa tiêu hoá, X-quang can thiệp, chuẩn đoán hình ảnh, tiết liệu.
5) Mức lương trung bình năm của một số nghề điển hình: Giáo sư Đại học 128.370$, Tư vấn Tài chính 117.130$, Phó Giáo sư 80.570$, nghiên cứu Toán học 72.260$, Giáo viên THPT 51.640$, Thiết kế kiến trúc 54.660$, Thiết kế nội thất 61.234$, Thiết kế thời trang 66.300$, Tạo mẫu thời trang (54.790$), Nhà báo 42.360$, Phóng viên thời sự 42.500, Kế toán 44.300$, Phân tích tín dụng (Ngân hàng) 54.640$, Giao dịch viên Ngân hàng 27.081$.
6) Những nghề có mức lương trung bình năm thấp nhất, từ 21.000$ đến dưới 30.000$ năm (hơn, kém 1/3 GDP bình quân đầu người): Trợ giảng 24.200$, Bank Teller 27.081$, Trợ lý điều dưỡng 29.286$, Thu ngân 21.450$, Tạo mẫu tóc 22.300$, Makeup Artist 21.750$, Nail 25.050$, Dọn phòng khách sạn 26.750$, Gác cổng 24.500$.
Như vậy có thể thấy ngay rằng ở Mỹ, số nghề có mức lương trung bình chỉ bằng từ 1/3 đến một nửa GDP đầu người rất nhiều, nếu tính toán chi tiết thì số nghề có mức lương trung bình dưới 70% GDP bình quân đầu người chiếm đa số trong xã hội.
Vậy lý do tại sao đa số người lao động lại có mức lương chưa đến 70% GDP bình quân đầu người của quốc gia, trong khi theo logic thông thường thì lương cùa người lao động phải cao hơn mới đúng bởi đa số người lao động đều có thêm ít nhất 1 người sống phụ thuộc nữa.
Câu trả lời là do khâu phân phối thu nhập không đồng đều. Ở Mỹ: chỉ 1% người giầu nhất đã chiếm 32,1% tổng tài sản nước Mỹ, 2% người giàu nhất chiếm 50% tổng tài tài sản, còn 50% người thuộc nửa dưới của xã hội chỉ chiếm có 2% tổng tài sản, thậm chí gần đây chỉ còn có 0,4% tổng tài sản thôi.
Với thông tin trên thì tôi cho rằng tỷ lệ người lao động có mức lương năm thấp hơn GDP đầu người của Việt Nam thấp hơn Mỹ khá nhiều (Việt Nam dưới 95,6 triệu đồng năm, 7.966.700 đồng tháng; Mỹ dưới 75.197$ năm, 6.266$ tháng.
Điều đó đồng nghĩa rằng số người Mỹ thấy số tiền lương một năm của họ quá thấp so với GDP đầu người của quốc gia sẽ nhiều hơn số người Việt Nam có suy nghĩ tương tự.
GDP bình quân đầu người (GDP Per Capita) là gì?
Trước khi tìm hiểu GDP bình quân đầu người, chúng ta cần hiểu thuật ngữ GDP. GDP hoặc Tổng sản phẩm quốc nội là tổng của tất cả các sản phẩm được sản xuất trong nền kinh tế của một quốc gia trong một năm tài chính. GDP bình quân đầu người (GDP Per Capita) có nghĩa là tổng thu nhập (GDP thực tế hoặc danh nghĩa) của một quốc gia chia cho tổng dân số của quốc gia đó.
GDP bình quân đầu người thường được sử dụng cùng với GDP để đo lường sức khỏe kinh tế và sự thịnh vượng chung của một quốc gia hoặc là thước đo cạnh tranh để so sánh nền kinh tế của các quốc gia. Người ta cho rằng GDP bình quân đầu người cao có nghĩa là mức sống cao nhưng có nhiều yếu tố khác phải được tính toán đến khi đánh giá khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế. GDP thường được tính bằng cách sử dụng đồng nội tệ của quốc gia đó, nhưng khi so sánh thì tiền tệ tiêu chuẩn là Đô la Mỹ.
Những yếu tố nào góp phần tạo nên GDP bình quân đầu người cao?
Dưới đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến GDP bình quân đầu người.
Tăng trưởng dân số: Bởi vì dân số là mẫu số trong công thức tính toán GDP bình quân đầu người, nên một quốc gia có dân số cao có thể làm thay đổi đáng kể con số cuối cùng về GDP bình quân đầu người. Dân số chính là nguồn cung cấp lao động cho xã hội để tạo ra của cải vật chất và tinh thần, đồng thời cũng là đối tượng tiêu thụ các sản phẩm, loại hình dịch vụ do chính con người tạo ra. Bởi vậy, dân số và chỉ số GDP có mối quan hệ tác động qua lại và không thể tách rời. Dân số chính là yếu tố quan trọng để tính toán GDP bình quân đầu người của một quốc gia ở một thời điểm nhất định.
Nếu tốc độ tăng trưởng dân số của một quốc gia vượt quá tăng trưởng kinh tế thì GDP bình quân đầu người sẽ tăng trưởng âm, ngay cả khi quốc gia đó tăng trưởng kinh tế tích cực.
Hiện tượng này có thể xảy ra ở các nước đang phát triển; khi tốc độ tăng dân số có thể nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế , dẫn đến mức sống trung bình thấp hơn.
Trong khi đó, Hoa Kỳ được coi là một quốc gia thịnh vượng. Mặc dù có dân số tương đối cao nhưng GDP của nước này đủ cao để đảm bảo GDP bình quân đầu người nằm trong số các quốc gia cao nhất.
Đầu tư nước ngoài: đầu tư trực tiếp nước ngoài, gồm các khoản đầu tư như: tiền mặt, phương thức sản xuất, công nghệ, cơ sở hạ tầng,…
Đầu tư nước ngoài tăng sẽ làm mở rộng quy mô sản xuất của các ngành kinh tế, từ đó tạo điều kiện cho chỉ số GDP được tăng cao. Đồng thời, việc gia tăng vốn đầu tư cũng giúp cho việc đẩy mạnh xuất khẩu và kinh tế được tăng trưởng.
Trình độ khoa học kỹ thuật: Trình độ khoa học kỹ thuật của các công dân một quốc gia cũng ảnh hưởng đến GDP bình quân đầu người của quốc gia đó. Những quốc gia có công dân có trình độ học vấn sau trung học thường có GDP bình quân đầu người cao hơn.
Những công dân có trình độ học vấn trên trung học đã đóng góp tới 60% vào mức tăng trưởng GDP chung ở Pháp, Na Uy, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh.
GDP bình quân đầu người cho bạn biết gì về một nền kinh tế?
GDP bình quân đầu người cao thường tương quan với mức sống cao, mặc dù GDP bình quân đầu người rất nhạy cảm với sự thay đổi về quy mô dân số.
Ví dụ, vào năm 2023, Luxembourg có tổng GDP là 87 tỷ USD, cao thứ 69 trên thế giới.
Tuy nhiên, do dân số chỉ khoảng 600.000 người nên GDP bình quân đầu người là hơn 132.000 USD; cao nhất so với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Ngược lại, Trung Quốc có tổng GDP là 27,31 nghìn tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ 19.098 USD vì nước này có dân số cao thứ nhì thế giới với hơn một tỷ người trong phạm vi biên giới của mình.
Phần lớn các quốc gia được Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF xếp hạng trong số 10 quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất là các nền kinh tế có quy mô nhỏ, phát triển cao và dân số thấp.
GDP bình quân đầu người cao cũng là một đặc điểm của các xã hội có công nghệ tiên tiến vì việc sử dụng công nghệ cho phép các nền kinh tế đó tăng năng suất và sản xuất nhiều hàng hóa hơn với ít lao động hơn.