1/5 hằng năm, người lao động được nghỉ một ngày hưởng nguyên lương. Vậy bạn biết gì về nguồn gốc và ý nghĩa của Quốc tế Lao động 1/5?
Tính xã hội của pháp luật:
Phương diện thứ hai trong bản chất của pháp luật đó là phương diện xã hội. Điều đó có nghĩa là, pháp luật vừa là sự thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị xã hội, vừa là công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác vì mục đích ổn định và phát triển xã hội theo đường lối của giai cấp thống trị. Tính xã hội là một thuộc tính khách quan, tất yếu và phổ biến của mọi nhà nước và pháp luật. Nếu không quan tâm đúng mức đến tính xã hội trong hoạt động của nhà nước và trong hệ thống pháp luật sẽ dẫn đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực dưới những mức độ, hình thức nhất định đối với quá trình quản lý xã hội của các nhà nước.
Xu hướng dân chủ hóa, những đòi hỏi về tự do, công bằng, hài hòa lợi ích luôn là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội và luôn đặt ra cho nhà lập pháp phải quan tâm. Một hệ thống pháp luật tốt, hiệu quả phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết hài hòa một cách tối ưu nhất lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội. Các nhà nước luôn luôn phải chịu những áp lực xã hội trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hay hủy bỏ các văn bản, các quy định pháp luật cho phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại, ngày càng nẩy sinh và gia tăng các vấn đề xã hội phức tạp luôn đặt lên vai các nhà nước phải xem xét và giải quyết.
Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội trong các kiểu pháp luật, trong một hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia vào các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có sự khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào hàng loạt những yếu tố khách quan và chủ quan như: điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống đạo đức, tập quán; tương quan lực lượng giai cấp, xã hội, tôn giáo, dân tộc; xu thế phát triển quốc gia và quốc tế, các yếu tố chủ quan khác…Chẳng hạn, xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa mọi lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi những cuộc cải cách lớn về pháp luật, đặc biệt là về tính công khai, minh bạch, sự ghi nhận và bảo đảm, bảo vệ các quyền con người.
Ví dụ, pháp luật của các nhà nước phong kiến trước đây chủ yếu là bảo vệ lợi ích của nhà nước và giai cấp địa chủ, đi ngược lại lợi ích của người lao động. Bên cạnh đó, pháp luật phong kiến còn có những quy định tuy không nhiều liên quan đến quyền lợi của người nông dân, các đối tượng yếu thế khác trong xã hội. Điển hình nhất là Bộ Luật Hồng Đức của nhà Lê. Bản chất của Quốc triều hình luật được biểu hiện ở tính giai cấp và tính xã hội, bảo vệ quyền lực thống trị của giai cấp phong kiến, trật tự xã hội phong kiến; đồng thời ghi nhận và bảo vệ quyền lợi của giai cấp nông dân và những người lao động khác, của phụ nữ, trẻ em, người già, người tàn tật.
Cũng như đạo đức, pháp luật có vai trò, giá trị xã hội to lớn ở tất cả các giai đoạn phát triển của nhân loại nhưng trên những mức độ nhất định. Chính cuộc sống con người, các mối quan hệ xã hội mà họ tham gia cần đến sự ổn định, trật tự được xác lập và đảm bảo bằng một hệ thống các loại quy tắc xã hội như đạo đức, tập quán, pháp luật v.v… Các quy phạm pháp luật là kết quả của sự tuyển chọn lâu dài trong thực tiễn xã hội, bản thân các quy phạm pháp luật cũng mang tính quy luật. Những cách xử sự hợp lý, khách quan được trải nghiệm, kiểm nghiệm trong cuộc sống, chuyển giao qua nhiều thế hệ, rất nhiều trong số đó có cội rễ từ trong xã hội tiền giai cấp, được nhà nước “tuyển chọn”, đưa thêm các quan điểm, lợi ích của mình và thông qua những thủ tục, hình thức pháp lý nhất định “ nâng lên” thành luật pháp.
Với tư cách là các quy tắc hành vi, pháp luật vừa có vai trò hướng dẫn, vừa có vai trò đánh giá, kiểm tra, kiểm nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội. Đồng thời, pháp luật còn là công cụ ghi nhận các quá trình xã hội, nhận thức xã hội, định hướng các hoạt động xã hội theo những tiêu chí, mục đích nhất định. Nhận thức đúng vai trò, giá trị xã hội của pháp luật. Các Mác đã viết: “pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội” và, “chừng nào bộ luật không còn thích hợp với xã hội nữa thì nó sẽ biến thành mớ giấy lộn”. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất điển hình và phổ biến. Kỹ thuật pháp lý trên cơ sở nhận thức khoa học các quan hệ xã hội là phải xử lý đúng đắn, hợp lý giữa tính khái quát, mô hình hóa với tính cụ thể trong các văn bản pháp luật để dễ hiểu, dễ vận dụng vào cuộc sống. Thực trạng hiện nay của chúng ta là có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành văn bản luật. Chủ trương chung là phải khắc phục tình trạng này, giảm thiểu số lượng các loại văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật. Muốn vậy, yêu cầu đặt ra là cần hoàn thiện các văn bản luật, luật phải phổ thông, dễ hiểu, dễ vận dụng, phù hợp cuộc sống.
Pháp luật là hiện tượng văn hóa, không chỉ của một quốc gia, dân tộc mà của nhiều nền văn hóa thế giới. Những quan hệ trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, dân sự, hôn nhân, gia đình, thương mại v. v… luôn hiện hữu những nét tương đồng của nhiều nền văn hóa. Do vậy, để có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về pháp luật, cần thiết phải đề cập đến các đặc điểm khác nữa của pháp luật như tính dân tộc, tính mở, tính nhân loại bên cạnh tính giai cấp, tính xã hội và giá trị xã hội của pháp luật. Một hệ thống pháp luật tốt, được người dân chấp nhận phải thể hiện các yếu tố, tinh thần dân tộc, truyền thống văn hóa, đạo đức, tập quán. Đồng thời pháp luật quốc gia phải là hệ thống pháp luật mở, tiếp nhận với tinh thần và khả năng chọn lọc những thành tựu của nền văn hóa pháp lý nhân loại, nhất là trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Sự xích lại gần nhau của các nền văn hóa, trong đó có văn hóa pháp luật đã và đang là xu thế tất yếu của thế giới hiện đại. Phải thay đổi để tồn tại trong một môi trường quốc tế hợp tác bình đẳng, cùng có lợi là con đường đi tất yếu của mọi quốc gia, dân tộc.
Nguồn của Luật lao động là gì?
“Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”.
Có hai loại nguồn chính của pháp luật nói chung cũng như luật Lao động nói riêng bao gồm:
Tùy vào căn cứ và từng trường hợp ta sẽ phân biệt thuộc loại nguồn nào. Khi xem xét về nguồn của pháp luật Việt Nam, ta cần phải quan tâm cả nguồn nội dung và nguồn hình thức của nó. Theo đó, nguồn nội dung của pháp luật được xem là căn nguyên khởi nguồn, là xuất xứ của pháp luật bởi bởi lí do nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật. Trong khi đó, nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế. Thế nhưng, sự phân chia này trên thực tế chỉ có tính chất tương đối.
Theo đó, tương tự, nguồn của Luật lao động là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành đảm bảo thực hiện điều chỉnh các quan hệ xã hội về lao động và các quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động.
Nguồn của luật lao động tiếng anh là “Sources of labor law”.
Tính giai cấp của pháp luật:
Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở sự phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản pháp luật, các hoạt động áp dụng pháp luật của nhà nước. Các Mác và Ph.Ănghen đã viết về pháp luật tư sản: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Nội dung của pháp luật tức ý chí nhà nước được quy định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế. Cần có quan điểm khách quan, toàn diện về pháp luật, không tuyệt đối hóa vai trò của các yếu tố kinh tế trong đời sống pháp luật và nhà nước.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo những mục đích, đường lối phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và những điều kiện khách quan của đất nước. Pháp luật, đương nhiên không phải là cấp số cộng giản đơn tất cả các lợi ích, nhu cầu của mọi cá nhân trong giai cấp thống trị mà là những lợi ích tiêu biểu, cơ bản và được chọn lọc, thông qua nhà nước “đề lên thành luật”.
Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng mang tính giai cấp sâu sắc, nhưng mức độ, cách thức thể hiện và thực hiện trong thực tế tính giai cấp không hòan toàn giống nhau trong các kiểu pháp luật và ngay cả trong một nhà nước, vào những thời điểm khác nhau. Pháp luật chủ công công khai xác định quyền lực tuyệt đối, vô hạn của chủ nô và tình trạng vô quyền của người nô lệ như là những “công cụ biết nói” trong xã hội đương thời. Pháp luật phong kiến vẫn được coi là pháp luật “quả đấm” với hệ thống những quy định, chế tài trừng phạt giã man, vô nhân đạo, bảo vệ công khai lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến. Mặc dù là một bước tiến bộ, phát triển vượt bậc so các kiểu pháp luật trước đó cả về nội dung và hình thức, song pháp luật tư sản vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản trước hết và chủ yếu. Trong thế giới hiện đại, nhà nước, pháp luật tư sản buộc phải có những thay đổi để thích ứng với điều kiện mới. Cần phải có sự đánh giá khách quan, toàn diện về hoạt động của nhà nước và hệ thống pháp luật tư sản. Theo đó, những yếu tố tiến bộ, tích cực cần phải được nghiên cứu, kế thừa chọn lọc.